Select Menu

Top

Được tạo bởi Blogger.

Bài đăng nổi bật

NGÀY ĐÓ CHÚNG MÌNH

Toại Khanh Tôi đi xa mới về. Thùng thư trước nhà đầy ắp, cả cái hộp thư riêng ở bưu điện cũng không còn chỗ nhét. Ngoài phần lớn những thứ đ...

Tìm kiếm Blog này

random posts

Ads 180

Ads 180
Bán xe Ford Taurus

Popular Posts

Kinh Phật

Phật sự

Thần Thông

Thiên Giới

Chùa Nam Tông

Đọa Xứ

Video

» » Phra Acharn Mun Bhūridatta Thera (phần II)
«
Next
Bài đăng Mới hơn
»
Previous
Bài đăng Cũ hơn



Mục lục 

Phần I 

Phần II 

61. Thời Pháp tại Chiengmai
62. Chiến đấu một mất một còn để thành tựu mục tiêu cuối cùng
63. Đại niệm và Đại tuệ
64. Chứng ngộ cuối cùng
65. Giáo Pháp về sự Giải Thoát
66. Chư thiên bày tỏ lòng thán phục
67. Bà vợ của Ngài (trong những kiếp trước)
68. Hôn nhân có thể tạo địa ngục hay thiên đàng trên cõi trần gian
69. Lời tán dương của chư Phật và chư vị đệ tử A La Hán
70. Tôn kính dựa trên sự phân biệt giữa phàm phu và chư vị đã tuyệt đối giải thoát

71. Xác chết không có nghĩa địa
72. Đường lối thực hành và giảng dạy tại Chiengmai
73. Trường hợp tình yêu sét đánh
74. Tìm lỗi người vì lòng từ bi
75. Đối thoại trong tâm và vũ khí chiến lược
76. Trường hợp một tỳ khưu võ sỹ
77. Giải Thoát – trạng thái vượt ra ngoài không gian và thời gian
78. Những con cọp trá hình
79. Cuộc chia tay bi tráng của Ngài
80. Hối tiếc và ăn năn vô ích

81. Sự trợ giúp thâm sâu và rộng rãi
82. Tác dụng của đôi mắt soi xét của Ngài
83. Không thương xót đánh vào tự ngã
84. Phế truất ma quỷ
85. Sự giúp đỡ rộng rãi của Ngài Acharn tại Chiengmai, đặc biệt giúp chúng sanh vô hình
86. Một cuộc viếng thăm của những vị trời từ Đức Quốc
87. Huyết mạch của vị tỳ khưu đầu đà
88. Cuộc mạo hiểm với một con voi
89. Trường hợp một vị tỳ khưu có tính nói lắp
90. Khả năng đặc biệt thích nghi với hoàn cảnh

91. Giai thoại về Ngài khi còn tại gia
92. Cuộc viếng thăm của vua trời Sakka Tâm là Giáo Pháp
93. Trường hợp một cái tháp xây dở
94. Tai hại của tâm luyến ái
95. Linh ảnh ba con voi
96. Giúp đỡ chúng sanh trong cảnh ngạ quỷ và địa ngục
97. Tiết lộ sự thật về cảnh trời và địa ngục
98. Bơi trên đất liền và máu chảy đầy ngực
99. Hang động thánh thiện trên đỉnh núi
100. Vị long vương tìm lỗi

101. Ảnh hưởng của thói quen và sự lặp đi lặp lại
102. Cách viên tịch của các vị đệ tử A La Hán
103. Niết Bàn
104. Độc quyền nhưng mọi người đều có thể thành tựu
105. Hiệu quả chữa bệnh của Giáo Pháp
106. Đau khổ tinh thần và vật chất phải được quán niệm rồi buông xả
107. Khả năng nội tâm và những lời dạy sôi nổi của Ngài
108. Sống như đã chết
109. Tiếng gầm của sư tử
110. Bản chất của tâm phàm tục

111. Tâm bất thối chuyển
112. Thời Pháp tại Chiengmai nhân ngày Phật Đản
113. Sự ra đời của Đức Phật và sự ra đời của những người khác
114. Không nên khinh miệt nghiệp của người khác
115. Từ Chiengmai đi Bangkok
116. Kiểm soát tâm là cốt lõi của giới đức
117. Câu hỏi của một vị trưởng lão
118. Không đói tức vô ngã
119. Tại Udorn Thani
120. Tình yêu trong những kiếp quá khứ

Phần III


^^^

-ooOoo-


61. Thời Pháp tại Chiengmai 


Nhân dịp này, Ngài Phra Acharn Upāli hào phóng mời Ngài Phra Acharn Mun thuyết giảng một thời Pháp cho đám đông tụ hội về chùa hôm ấy. Thời Pháp của Ngài thật cảm kích vô cùng, làm cho mọi người rất hoan hỷ say mê và khi chấm dứt mọi người đều muốn nghe thêm.

Đề tài của thời Pháp hôm ấy là Amupubbikathā, chuỗi những thực hành quan trọng đưa đến tiến bộ (bao gồm bố thí, trì giới, tái sanh vào cảnh trời, ảnh hưởng bất thiện của nhục dục ngũ trần và lợi ích của sự xả ly. Rồi tiếp đến Tứ Diệu Đế). Sau thời Pháp Ngài đảnh lễ Ngài Upāli và lui về tịnh thất an nghỉ.

Giữa đám đông tụ họp ngày hôm ấy, Ngài Acharn Upāli hết lời tán dương thời Pháp, nói rằng Ngài Acharn Mun thuyết giảng thật khéo, thật tuyệt vời, khó có người sánh bằng. Ngài nói rằng thời Pháp này phải được gọi là muttodayā – đưa người nghe tới Bình minh của sự Giải thoát. Ngài Acharn Mun giảng giải đặc biệt tỉ mỉ, cả đến chính Ngài (Acharn Upāli) cũng không thể thuyết được như vậy, mà thật thú vị và đầy cảm hứng.

Ngài Acharn Upāli nói: “Những gì mà nhà Sư hành hạnh đầu đà này nói, và lối trình bày của Sư quả thật kỳ diệu. Sư đã cho chúng ta những lời giáo huấn quý báu và khơi gợi nơi người nghe khát khao được lãnh hội Giáo Pháp càng cao hơn nữa (bài giảng đề cập đến những gì chúng ta có xu hướng xem thường, coi là đương nhiên). Sư làm cho chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta không bao giờ nghĩ đến những chuyện như vậy trước khi được Ngài nhắc. Ngài Acharn Mun rõ ràng là nhà sư kammāṭṭhāna (một nhà sư trau dồi thiền tập), là người đang đi trên con đường của Đức Phật với chánh niệm và trí tuệ. Sư không xem thường Pháp, hoặc lạm dụng Giáo Pháp như nhiều nhà sư và cư sỹ khác. Sư không đơn điệu mà nhấn mạnh những điểm có ý nghĩa đặc biệt, lý giải những điểm khó hiểu, giải thích rõ ràng, tường tận cho người nghe. Sư thật tài và lối giảng của Sư ít người sánh bằng. Về phương diện này tôi là thầy của Sư mà không bì kịp. Có nhiều, rất nhiều điểm mà tôi không thể giải thích nhưng Ngài Acharn Mun thì có thể. Tôi hỏi ý kiến và lời khuyên của Ngài về những điều không rõ, và khuyến nghị của Ngài luôn làm tôi hài lòng. Tôi học được rất nhiều bài học quý giá nơi Ngài Acharn Mun.

“Phra Acharn Mun nhận lời mời cùng đi với tôi đến Chiengmai, có lẽ bởi vì Sư thấy rằng đây là một thị trấn nằm trong vùng rừng núi, thích hợp với lối sống ẩn dật của người đạo sỹ du phương. Sư là một vị tỳ khưu có những phẩm hạnh rất hiếm hoi. Mặc dù tôi là bậc huynh trưởng nhưng thật lòng rất kính phục Sư, và lúc nào Sư cũng tỏ vẻ khiêm tốn đối với tôi đến nỗi lắm khi tôi không khỏi bối rối. Sư sẽ lưu lại đây ít lâu rồi lên đường, tiếp tục cuộc du hành. Tôi không thể thuyết phục Sư ở nán lâu dài vì mục tiêu duy nhất của Sư là tìm chân lý cao thượng nhất. Tất cả những gì tôi có thể làm được là tán dương mục tiêu vị tha của Sư, lúc nào cũng tận lực cố gắng để trong một tương lai gần, có đủ khả năng giúp chư vị tỳ khưu và thiện tín cư sỹ một cách hữu hiệu hơn. Quý vị nào quan tâm đến hành thiền có thể đến gặp Sư, quý vị sẽ không thất vọng. Nhưng có một điều quý vị nên nhớ là chớ nên quấy rầy Sư với những chuyện mê tín dị đoan. Sư sẽ quở trách quý vị về những câu chuyện cuồng si như vậy. Sư chỉ thực hành và giảng dạy Giáo Pháp của Đức Phật và sẽ không dẫn dắt ai đi lệch ra khỏi Đạo Lộ.

“Tôi có thảo luận với Sư về Giáo Pháp và đã được thuyết phục về những điều kỳ diệu mà ngày nay không thể học hỏi với ai khác. Tôi rất khâm phục và kính nể Phra Acharn Mun, mặc dù không nói ra với Sư, nhưng tôi biết chắc rằng thật sự Sư đáng tôn kính là một vị Thánh Đệ Tử trong ý nghĩa cao đẹp nhất của từ đó. Chính Sư không bao giờ nói gì về Sư, nhưng trong câu chuyện không chính thức, khi không có mặt ai khác, lối thông hiểu và giải thích rất rõ ràng, sáng tỏ, minh bạch, hiển nhiên thấy Sư đã chứng đắc đến tầng Thánh thứ ba (Anāgāmī – Bất Lai hay A Na Hàm). Tất cả những gì Sư giải thích và làm sáng tỏ đều phù hợp với Kinh điển. Lúc nào Sư cũng khiêm tốn và tôn kính tôi, không bao giờ thiếu tôn kính hay tỏ thái độ kiêu hãnh. Nhìn bề ngoài của Sư, người ta có thể tưởng Sư là một mảnh vải rách vô dụng. Cảm tưởng mà Sư gieo trồng nơi tôi là niềm cảm mộ tôn kính thâm sâu.”

Nhóm người tụ hội hôm ấy chưa bao giờ biết đến Ngài Acharn Mun. Sau khi thời Pháp chấm dứt, Ngài Acharn Upāli nhân cơ hội giới thiệu với thính giả và cũng tỏ lời ca ngợi Ngài. Lúc bấy giờ Ngài Acharn Mun đã trở về tịnh thất không có ở đó. Vài vị tỳ khưu hiện diện trong số thính giả thuật lại cho Ngài nghe những gì Ngài Upāli đã nói, và về sau Ngài kể lại cho một nhóm đệ tử thân cận. Một cuốn sách nhỏ được phát trong lễ hỏa táng của Ngài Phra Acharn Mun có tiểu sử ngắn gọn và những bài giảng của Ngài được gọi là Muttodayā (Bình minh của Sự giải thoát) là lấy từ tên gọi Ngài Upāli đặt cho bài pháp của Ngài trong sự kiện này.

Được biết rằng Ngài Phra Acharn Mun lưu ngụ trong vùng rừng núi hoang vu của Chiengmai trong thời gian mười một năm (từ 2472 đến 2483 PL, 1929 đến 1940 DL), sau đó Ngài về Udorn Thani theo lời thỉnh cầu của Ngài Phra Dhammacetiya chùa Wat Bodhisomphorn. Chuyện này sẽ được kể tiếp ở sau.

^^^


62. Chiến đấu một mất một còn để thành tựu mục tiêu cuối cùng 


Sau khi ngụ tại Wat Chedi Luang, Chiengmai một thời gian, Ngài giã từ Ngài Phra Acharn Upāli và ra đi, tiếp tục sống đời đạo sỹ du phương tại một nơi rừng núi hẻo lánh của thị trấn này. Ngài đi đơn độc một mình, giờ đây là cơ hội tốt nhất để tăng cường nỗ lực chuyên cần tinh tấn, những cố gắng đã phải gạt lại để giúp đỡ người khác. Từ giờ không còn gì phân tán chú tâm, và do vậy ngưng trệ cố gắng của Ngài. Những nơi hoang vu, vắng vẻ mà Ngài lưu ngụ vào lúc ấy có vùng rừng núi của quận Mac Rim và Chieng Dao, cùng với những nơi khác, và Ngài ở cả trong mùa mưa lẫn mùa nắng. Đây là cuộc chiến đấu một mất một còn, hoặc chết hoặc thành tựu mục tiêu cứu cánh. Ngài đã dành đủ thời giờ để giúp đỡ người khác. Giờ đây là lúc phải tự trau dồi để phát triển nội tâm để tự hoàn thiện. Lối sống kết hợp với người khác tràn đầy đau khổ và có nhiều gánh nặng. Chỉ phải nương nhờ niệm và tuệ mới có thể phần nào vơi bớt đau khổ. Dù sao, gánh nặng vẫn còn đó để làm giảm thiểu kết quả của sự cố gắng.

Giờ đây Ngài Acharn là một người đơn độc trong khu rừng hoang vu. Nơi đây Ngài phải tận lực cố gắng và quyết chiến đến cùng để thấu đạt nguyên nhân của sự “trở thành”, của sanh ra và những đau khổ khác. Tâm còn lo âu về những sự việc hay bận rộn vì những người khác, cũng giống như ghe thuyền phải chở quá đầy, sớm muộn cũng sẽ phải đắm chìm dưới nấm mồ biển cả. Với một cái tâm như thế ắt không hy vọng thành đạt tình trạng Chấm Dứt Đau Khổ. Tâm từ hướng về người khác giờ đây phải tạm thời chấm dứt. Trong khi chiến đấu để thành đạt Mục Tiêu Cuối Cùng, tâm từ cho người khác phải diệt đi, vì nó sẽ ảnh hưởng tới chính Mục Tiêu ấy. Đã nguyện bước theo dấu chân của Đức Phật, người mà hạnh tinh tấn không ai bì kịp, thì bắt buộc phải tìm hiểu cách thức và phương pháp của Ngài để noi đúng theo Chánh Đạo. Một khi đã viên mãn hoàn thành công phu trau dồi nội tâm, ta có thể giúp người khác hữu hiệu hơn nhiều.

Thời cơ đã đến để quyết liệt xông pha vào cuộc chiến giữa ô nhiễm và đường lối thực hành Giáo Pháp. Trong thời gian qua, tâm đã bị hai bên (ô nhiễm và Giáo Pháp) giằng xé, đến giờ thì chỉ còn một bên được sở hữu tâm hoàn toàn. Nếu kém tinh tấn và thiếu trí tuệ, tâm sẽ hoàn toàn là nô lệ của ô nhiễm và chắc chắn sẽ lái tâm tới đau khổ không sao kể xiết trong vòng sanh tử. Nhưng nếu tinh tấn và trí tuệ phát triển đầy đủ, tâm sẽ là Giáo Pháp và Giáo Pháp sẽ tuyệt đối thuộc về hành giả như một kho tàng vô giá. Đã đến lúc để đánh một đòn quyết định, dù sống hay chết cũng quyết phải tận diệt ô nhiễm. Nếu không thể chiến thắng, hãy để cho thân này chết trong cố gắng. Kẻ chiến bại thà phải bỏ xác hơn là chịu nhục, và chắc chắn sẽ bị ô nhiễm cười chê, chế giễu.

Đó là cách Ngài Phra Acharn Mun thỉnh thoảng tự cảnh giác và tự khích lệ trong khi đơn độc giữa rừng hoang ở Chiengmai. Cuộc sống của Ngài ở đây được kiểm soát chặt chẽ trong một thời khóa biểu nhất định, không thay đổi. Chuyên cần tinh tấn suốt ngày, suốt đêm bất cứ lúc nào, trong mỗi cử động của thân và trong mỗi giây suy nghĩ. Trong suốt thời gian, niệm và tuệ luôn luôn quán chiếu và suy tư mỗi khi có sự tiếp xúc bên ngoài và lăn tăn bên trong. Không có gì, tuyệt đối không có gì, lọt được vào bên trong hàng rào niệm và tuệ, vốn đã tiến đến tầng Dhammacakka (Bánh xe của Giáo Pháp), tự nhiên, tự động và liên tục không gián đoạn.

Câu chuyện về cuộc chiến đấu của Ngài được chính Ngài tường thuật, làm người nghe vừa kinh ngạc vừa nín thở. Tất cả mọi người đều sững sờ khi nghe câu chuyện can đảm và đơn độc chiến đấu giữa rừng, không có sự trợ giúp hay khích lệ nào của bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì, ngoại trừ chính đức hạnh chuyên cần tinh tấn của Ngài. Quả thật tuyệt diệu và đầy kinh ngạc làm người nghe có cảm tưởng như cánh cửa đã mở ra cho họ để họ có thể chứng ngộ Niết Bàn. Và chính vào thời điểm thực tế trong câu chuyện, Ngài đang tiến đến thành tựu Mục Tiêu cuối cùng với toàn bộ tốc lực.

^^^


63. Đại niệm và Đại tuệ 


Ngài Acharn nói rằng tâm Ngài đã vững chắc đạt được từ lâu trong Tầng Thánh Quả thứ Ba (A Na Hàm Quả) nhưng vì phải đảm nhận nhiều bổn phận giáo huấn và đào luyện đệ tử, Ngài không có thời gian để gia công thành tựu tầng Thánh Cuối cùng. Ngài đã hoàn thành, khi lần này đơn độc du hành trong vùng rừng Chiengmai với nhiều điều kiện thuận lợi. Môi trường và khí hậu đặc biệt thuận lợi, cơ thể vật chất và tâm trí dồi dào, sẵn sàng để hỗ trợ cho bất kỳ mức độ tinh tấn nào, tâm tỉnh giác và sẵn sàng. Giáo Pháp tối thượng dường như đã sẵn sàng ló rạng ở chân trời, và sự Chấm Dứt Đau Khổ không còn xa. Cuộc chiến tiến dần đến giai đoạn kết thúc, người khát khao Giáo Pháp dồn được con cáo ô nhiễm vào một góc tường. Giờ đây các ô nhiễm đã kiệt sức và bị dồn vào đường cùng, chỉ chờ ngày chết, khi người khát khao Giáo Pháp nhảy tới và tận diệt chúng. Mặc dù đây chưa hẳn là kết thúc cuộc chiến nhưng kết quả không thể thay đổi nữa.

Đến giai đoạn phát triển này, tâm đã kiên cố trang bị với cái có thể gọi là đại niệm (mahāsati) và đại tuệ (mahāpañña), luôn hoạt động và không giảm sút, mặc dù không quyết tâm cố gắng để kiểm soát. Một cách tự động, tự nhiên và liên tục, đại niệm và đại tuệ hoạt động nhanh chóng và hiệu quả khi đối phó với những hoàn cảnh bên ngoài hay bên trong. Mọi sự đều được kiểm tra và quán chiếu rồi buông xả, để chúng về nơi của chúng. Có sự khác biệt rõ ràng với những giai đoạn phát triển ban đầu, khi mà niệm và tuệ cần phải cố gắng trau dồi và kiểm soát. (Và dù đã tận lực chuyên cần, sự tiến bộ vẫn giống như sự tiến bộ trong trò chơi “Rắn và thang” của trẻ con, lúc thì nhanh chóng nhảy vọt lên cao, rồi lúc khác lại tụt qua “ổ rắn” về nơi mà nó bắt đầu trò chơi từ bao lâu rồi). Có làm hay không làm điều này hay điều nọ, và hiểu biết và lý do để suy nghĩ điều này hay điều nọ vì lý do này nọ, và cách để xử lý điều này điều nọ một cách hợp lý, tất cả đều trọn vẹn nằm trong đại niệm và đại tuệ. Không cần phải cố gắng một cách có ý thức, nó tự động phát khởi bởi vì ngoại trừ khi ngủ, ngày đêm, từng giây từng phút, lúc nào nó cũng hoạt động giống như mạch nước không ngừng rỉ thấm vào giếng nên giếng không bao giờ cạn.

Ngài luôn luôn quán chiếu các duyên cho cảm giác, sự ghi nhớ hay hồi tưởng, sự hình thành suy nghĩ, và ý thức - bản chất tự nhiên của chúng được mũi tên niệm và tuệ xuyên thấu. Còn sắc uẩn thì đã mất hết ý nghĩa của một đề tài quán chiếu vì Ngài đã chứng đắc tầng Thánh Bất Lai. Bốn uẩn phải được quán chiếu tận tường và đầy đủ khi chúng biến chuyển xuyên qua ba giai đoạn sanh, trụ và diệt, tất cả đều dựa trên nền tảng anattā (vô ngã), không có thực thể nguyên vẹn thường còn gọi là “đàn ông”, “đàn bà” và “thú.” Xin lặp lại, không có “đàn ông”, “đàn bà” và “thú”, “tôi”, “anh”, “anh đó”, “chị kia”, “chúng tôi”, “chúng nó”, hay bất luận uẩn nào trong bốn uẩn (nói chi đến sắc uẩn thô thiển). Chân lý này phải được chứng ngộ rõ ràng qua hiểu biết xuyên thấu hay tuệ giác chứ không phải chỉ bằng trí nhớ hay hiểu biết học giả. Phải ghi nhớ rằng hai mức độ hiểu biết này cách xa nhau một trời một vực.

Hiểu biết bằng cách hồi nhớ (ở mức độ trí thức) có chiều hướng thổi phồng tự ngã, kích động cảm giác, đưa đến trạng thái tâm rối loạn điên cuồng và tăng trưởng ảo kiến tự ngã. Sự thật này được thấy hiển nhiên trong nhiều buổi thảo luận Giáo Pháp thấy có tranh cãi nhỏ mọn, phê bình chỉ trích lẫn nhau và khẩu chiến. Mỉa mai thay, tất cả những cái đó chỉ tạo thêm ô nhiễm, không phải từ bỏ. Mục tiêu của việc thảo luận về Pháp phải là để loại trừ ô nhiễm. Nhận thức chân lý bằng cách phát triển trí tuệ trong ý nghĩa cao đẹp nhất của từ này phải đưa đến kết quả làm suy giảm hay loại trừ luôn ô nhiễm, thô và tế, tùy theo mức độ phát triển trí tuệ.

Không ô nhiễm nào có thể ẩn núp hay lẩn trốn dưới con mắt lục soát của trí tuệ đã phát triển đầy đủ, hay đúng hơn là niệm và tuệ, là khí giới hữu hiệu nhất để loại trừ ô nhiễm. Chính nhờ trí tuệ mà Đức Phật và các Thánh 133 Đệ Tử có thể thành tựu Giác Ngộ. Hẳn không phải do sự hiểu biết bằng cách học hỏi, suy tư và ghi nhớ, vốn còn ở tầm mức trí thức, suy tư, biện luận. Nói như vậy không phải có ý cho rằng nhận thức và ghi nhớ là vô dụng, vì chúng dẫn đường chỉ lối trong những giai đoạn phát triển đầu tiên, nhưng ngay cả ở những giai đoạn đầu cũng cần phải cẩn thận không nên lầm tưởng chính đó là chân lý.

Chân lý mà Đức Phật và các Thánh Đệ Tử của Ngài tuyên ngôn, ban truyền cho thế gian, bao giờ cũng do sự phát triển trí tuệ, không phải chỉ do tri giác và trí nhớ. Như vậy, điều tối quan trọng cho người Phật tử thực hành Giáo Pháp là luôn luôn thận trọng với sự hiểu biết bằng trí nhớ, không bao giờ lầm lẫn xem chắc đó là trí tuệ. Phải ghi nhớ rằng kiến thức trần gian, sự hiểu biết nhờ ghi nhớ không bao giờ làm giảm suy hay đè nén ô nhiễm, chứ đừng nói đến loại trừ ô nhiễm. Cái tâm bị trí nhớ tràn ngập vẫn còn bị ô nhiễm tràn ngập như trước.

Người Thái có thành ngữ nói rằng “một hòn núi kiến thức có thể đè nặng trên mình con người, thay vì nâng cao con người lên.” Chính vì mục đích muốn khuyến khích người Kalama phát triển trí tuệ mà Đức Phật khuyên dạy họ không nên đặt niềm tin nơi một vị thầy chỉ vì mình suy diễn, ước đoán, hay nghe tiếng đồn v.v. Ngài khuyên họ nên trước hết tự mình giác ngộ chân lý để có thể tự biết (nhờ trí tuệ) điều gì thiện và điều gì bất thiện. Sự hiểu biết như thế là hiển nhiên, không cần ước đoán, suy luận, hay nghe lời đảm bảo của ai khác. Đối với Đức Phật và Chư vị Thánh Đệ Tử, không cần phải tìm kiếm ai để bảo đảm hay để xác nhận kiến thức của các Ngài. Chính đặc tính gọi là sanditthiko (tự mình chứng ngộ) của Giáo Pháp là sự bảo đảm tín cẩn nhất.

Ngài Acharn nói rằng giai đoạn thực hành này quả thật hấp dẫn và thú vị. Không còn thèm ăn hay ngủ. Không còn cảm giác mệt nhọc hay uể oải tinh thần, ngày qua ngày, đêm qua đêm. Tâm liên tục chiến đấu với ô nhiễm không chút do dự, lo âu. Ngài không để mất chút thời gian nào. Trong cuộc sống đơn độc giữa rừng, thời giờ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngài.

Không bao lâu sau khi rời Wat Chedi Luang, Ngài Acharn đến một đầm lầy rộng lớn có tên là Nong Auh (trong ngôn ngữ Thái Lan, “auh” là một tiếng reo mừng, thể hiện sự đốn ngộ sau một loạt những thử nghiệm và mò mẫm). Đến đây, tâm của Ngài bắt đầu biểu dương năng lực một cách tráng lệ và ngoạn mục, như một tuấn mã vừa được đào luyện tốt và đang hăng hái. Nó lanh lẹ phóng vọt lên, lượn xuống, rồi vượt ra ngoài để thâu nhận tin tức và mục kích ngoại cảnh và những diễn biến trong tất cả những tầng tâm thức, rồi rút trở về xé tan ô nhiễm bên trong, đào xới tận gốc rễ. Đó là năng lực và cường độ trước kia đã bị giam hãm trong một thời gian lâu dài khi Ngài bận tâm lo giúp người khác. Lúc ấy tâm bị cầm giữ và gò bó trong những chuyện thế gian với những tập tục cổ truyền, giờ đây cửa đã mở ra, năng lực tiềm tàng của nó được thả tự do. Sức mạnh của niệm và tuệ trở nên vô cùng chủ động và năng động. Nó vọt phóng ra ngoài quan sát Tam Giới, và lao trở vào quán chiếu bên trong. Tâm tích cực hoạt động với tất cả năng lực trên mọi phương diện, lúc thì từ bỏ, khi buông xả, đặt xuống rồi cắt xén, nghiền nát và khoan thủng vào những hóc hẻm ô nhiễm còn lại.

Giống như cá kình khổng lồ dũng mãnh, ngụp lặn và biểu diễn đủ trò nhào lộn giữa biển cả mênh mông. Khi nhìn lại, tâm thấy xa xa ló rạng ở chân trời vầng mây đen kịt của tội ác và hiểm họa đang tích tụ một cách hăm dọa, thúc giục tâm chiến đấu thành tựu Giải Thoát bằng mọi giá. Chăm chú nhìn về phía trước, Ngài thấy ánh sáng vinh quang tỏ rạng hình như ra dấu chào mừng, sẵn sàng đón rước vào để tận hưởng kho tàng kiến thức vô tận.

Ngài Acharn thuật lại nhiều hơn nữa về giai đoạn tối quan trọng này trong cuộc đời Ngài, nhưng không thể ghi chép đầy đủ mọi điều Ngài kể trên những trang giấy này.

^^^


64. Chứng ngộ cuối cùng 


Không bao lâu sau, nhờ sự hỗ trợ của Đại Niệm và Đại Tuệ, khi tận lực chuyên cần liên tục thực hành không gián đoạn, một đêm nọ lúc về khuya, ngồi trên mặt phẳng của một tảng đá to, dưới một cội cây đơn độc tầng lá sum suê, bên cạnh đồi núi, Ngài Acharn chăm chú hành thiền. Quanh đó là trảng đất trống, thỉnh thoảng có một làn gió hiu hiu nhè nhẹ thổi qua, làm tăng thêm phần mát mẻ và thoải mái cho tình trạng tĩnh lặng của cảnh vật. Đây là nơi mà Ngài thường ngồi lúc ban ngày. Tiếc rằng người viết không biết nơi ấy chính xác là đâu vì quên ghi lại tên của cội cây kể trên, luôn cả tên ngọn đồi và châu quận ấy. Tâm của người viết lúc bấy giờ đang say mê với câu chuyện đến độ không còn nhớ gì đến chi tiết. Mãi nhiều ngày sau đó, sự kỳ diệu của câu chuyện vẫn chưa phai mờ. Người viết cũng tự thấy thương cho mình, không biết có duyên lành thành tựu thế không. Vào lúc ấy, không bao giờ có ý nghĩ sẽ ghi lại cuộc đời của Ngài Acharn như đang thực hiện trong hiện tại.

Từ chiều đến khuya đêm ấy, Ngài Acharn suy niệm về Pháp Thập Nhị Nhân Duyên, trong lúc thiền tọa và thiền hành, và theo cả chiều xuôi và chiều ngược, lặp đi lặp lại, rà đi soát lại toàn bộ phạm vi mà vô minh và ái dục cấu hợp để tạo những sắc thái đau khổ khác nhau trong tâm. Đây là điểm then chốt giữa cuộc chiến giữa Ngài Acharn, sử dụng khí giới tận diệt của Đại Niệm và Đại Tuệ, và vô minh, lừng danh khét tiếng về những mánh khóe gian xảo của nó. Vô minh rất thông minh, không chỉ trong những thủ đoạn tự vệ mà còn lanh lợi khéo léo trong chiến thuật tấn công, có thể đột ngột xung kích kẻ thù và gây những hậu quả tai hại khủng khiếp. Và điều này dĩ nhiên từ ngàn xưa, người còn lăn lộn trong vương quốc của Tái sanh và Tái tử đều phải nằm trong nanh vuốt đầy quyền uy của nó. Tuy nhiên trong cuộc chiến một mất một còn với Ngài Acharn đêm ấy, vị quốc vương quyền uy và xảo quyệt của Tam giới đã bị truất phế, không còn ai cứu giúp. Hắn đã bị Ngài Acharn dùng vũ khí tuyệt vời của Đại niệm và Đại tuệ đánh ngã. Quyền thế, cho đến nay là bất khả kháng (đối với người thế gian), sau cùng đã bị Ngài Acharn thử thách, và cuối cùng tuyệt đối đánh bại.

Theo tường thuật của Ngài Acharn, vào lúc bấy giờ, Tam Giới hình như rung động với ngưỡng phục và kinh ngạc. Trong nhiều cảnh trời khác nhau, chư thiên đồng thanh reo lên biểu lộ lòng nhiệt thành tán dương ca ngợi rằng trên thế gian giờ đây có thêm một vị Thánh Đệ Tử của Đức Phật, và họ vui mừng khôn xiết. Tuy nhiên, cảnh người có thể không ai hay biết gì đến điều này, vì bận lo lợi dưỡng trong dục lạc ngũ trần, họ không thể biết rằng trong giây phút vừa qua, một người vừa chứng ngộ Giáo Pháp tối thượng.

Sau một lúc, khi tiếng hò reo dần dần lắng dịu thì còn lại bên trong Ngài sự thanh tịnh tuyệt đối của Giáo Pháp, làm mát mẻ cả thân lẫn tâm và bao trùm toàn bộ thế gian. Đối với Ngài, đó là sự huyền diệu không thể mô tả cho người khác. Mọi tâm từ và quan tâm giáo huấn người khác giờ đây (tạm thời) tan biến. Vì Giáo Pháp ở mức độ này vi tế, thâm sâu và kỳ diệu đến mức đa số mọi người khó lòng hiểu được. Trong một lúc, Ngài do dự không biết có nên truyền báo tin này cho người khác không, vì thọ hưởng một mình những kỳ diệu của Giáo Pháp thế này đã hạnh phúc rồi. Ngài hết lòng mang ơn Đức Phật, đã chứng ngộ toàn thể chân lý và từ bi ban truyền Giáo Pháp nhằm mục đích soi sáng Con Đường Giải Thoát cho thế gian. Giáo Huấn của Đức Phật tuyệt đối là chân lý, không thể nghĩ bàn trên mọi phương diện. Xuyên qua lòng sùng kính biết ơn thâm sâu và rộng lớn, suốt đêm Ngài rất cảm kích tưởng nhớ đến các ân đức của Đức Phật. Giáo Pháp thâm diệu đến mức độ nếu thuyết giảng chỉ làm cho người đời nặng lời phê bình chỉ trích, và kết quả là chỉ có chiều hướng làm mất lòng hơn là có thể giúp ích người khác. Đó là những suy nghĩ tạm thời thoáng qua trong tâm Ngài liền sau khi vừa khám phá ra Giáo Pháp Tối Thượng. Sau giây phút cảm nhận như thế, Ngài nới rộng bối cảnh, ôn nhìn trở lại việc tu tập của mình và xem xét khả năng của người khác.

Con Đường của Đức Phật là cho tất cả những ai, giống như Ngài, muốn và dám chịu đựng mọi thử thách. Trên thế gian còn nhiều người như vậy. Từ khi Đức Phật tuyên ngôn ban truyền Giáo Pháp đã có vô số những vị đệ tử có đủ khả năng lĩnh hội và thành tựu Giáo Pháp ấy trong khi Ngài còn hiện tiền và sau khi đã viên tịch. Chỉ sau khi nghĩ lại như thế, Ngài quyết định truyền giao lại bức thông điệp của Đức Phật đến tay những ai thành tâm và tôn kính lắng nghe. Không lợi ích gì khi dạy cho những người không chịu nghe hoặc chịu nghe một cách hờ hững, không tôn kính cũng không chú tâm, xem thường Giáo Pháp. Chỉ sau khi chịu đựng một loạt đau khổ, Giáo Pháp Tối Thượng mới toàn thắng. Như vậy, thật vô ích khi “hòa tan” Giáo Pháp vô giá “trong đại dương” cũng như ta ngâm cho tan một món đồ không giá trị. Giáo Pháp được tuyên ngôn cho người muốn nghe. Lương y biên toa cho thuốc là nhằm trợ giúp cho người bệnh vượt qua khỏi khổ nhọc đau nhức. Ngày nào mà bệnh nhân còn muốn sống với cơn bệnh của mình thì còn làm ngơ với những lời khuyên của lương y.

Người sống trong Giáo Pháp lúc nào cũng tự thấy đủ và có thể cảm thấy thanh bình hạnh phúc trong mọi trường hợp, vì người đó không phụ thuộc vào ai để có sự yên ổn và an lành. Không có gì có thể làm bận rộn hay phiền lụy một tâm hoàn toàn thanh tịnh và bất lay chuyển. Vì vậy, Ngài Acharn thích sống phần lớn trong rừng hoang. Thỉnh thoảng, tùy trường hợp, Ngài giúp đỡ người khác khi hoàn cảnh cho phép. Nơi nào có Giáo Pháp, nơi đó có an lạc và hạnh phúc. Khi tâm là Giáo Pháp thì tự nó là hạnh phúc và an lành. Phải chiến đấu (để tìm những kết quả bên ngoài) chỉ tạo thêm đau khổ cho mình. Điều này làm cho Ngài Acharn rất cẩn thận trong khi thuyết giảng Giáo Pháp, chứ không giảng cho ai cũng giống ai. Lúc nào cũng làm theo phương thức và đường lối giảng dạy của Đức Phật. Đó là kim chỉ nam hướng dẫn đường lối chỉ dạy của Ngài. Và đó cũng phải là kim chỉ nam cho các Phật tử khác để tự nhắc nhở mình tuân theo Giáo Pháp của Đức Phật và thâu gặt trọn vẹn lợi ích trong hiện tại và trong tương lai.

Suy ngẫm thêm về những phương thức và đường lối giảng dạy và thực hành, Ngài Acharn quán chiếu trở đi trở lại Giáo Pháp Tối thượng đã rọi sáng cho tâm Ngài. Đây là Giáo Pháp đầy đủ và trọn vẹn, nhưng cũng đột ngột, không thể đoán trước, không thể tưởng tượng và không thể mô tả. Ngài cảm thấy như đã chết đi và tái sanh, nhưng đây là sự chết rồi sanh vô cùng tuyệt diệu, không thể so sánh với những gì đã được biết. Trí tuệ thâm sâu và huyền diệu phát sanh với kiếp sống mới và tuyệt vời này chưa bao giờ Ngài biết và mơ ước tới, mặc dù nó vốn thuộc về chính tâm. Hào quang rọi sáng cho Ngài quả thật vô cùng huyền diệu, hết sức lạ thường, nên lúc đó Ngài không nghĩ là có ai có thể thấu đạt Giáo Pháp vừa thâm sâu vừa lạ thường như thế.

^^^


65. Giáo Pháp về sự Giải Thoát 


Bản chất tâm của Ngài Acharn rất năng động và thường thích những trò nhào lộn điêu luyện, kể cả khi mới tu tập. Khi đạt được Mục Tiêu Tối Hậu, một lần nữa nó lại biểu diễn sự điêu luyện đúng theo đặc tính của nó. Vào lúc vừa “bẻ gãy vòng quay ba lớp” (9) , vẫn còn ba vòng của nó bao quanh (cái tâm vừa giải thoát). Với sự chấm dứt của vòng đầu tiên, từ Pāli là lopo (cắt đứt) hiện lên. Với sự chấm dứt vòng thứ nhì, từ Pāli là vimutti (Giải Thoát) hiện lên, nghĩa là tâm đã thực hiện hoạt động cuối cùng để đạt được Giải Thoát hoàn toàn. Với sự chấm dứt vòng thứ 3, phát sanh từ Pāli anālayo (không còn ham muốn), chỉ ra rằng với hoạt động cuối cùng, không còn mảy may ham muốn nào nữa. Từ đây trở đi, tâm trở thành ekacitta (một cái tâm duy nhất), ekadhamma (Giáo Pháp duy nhất), không còn hiện tượng nhị nguyên như trong thế giới phàm tục.

Đó là Giáo Pháp về sự Giải Thoát, dứt khoát tách lìa khỏi tất cả những sự vật trần gian và do đó là chỉ là một. Giáo Pháp Giải thoát này chỉ xảy ra một lần duy nhất, không phải hai hay nhiều lần hơn nữa. Đức Phật và các vị Thánh Đệ tử chỉ biết một lần Giáo Pháp Giải thoát, và do đó trở thành ekacitta và ekadhamma, tâm duy nhất và Giáo Pháp duy nhất, không có sự thành đạt nào cao hơn nữa. Các uẩn thuộc về tâm và thân vẫn còn như trước, chỉ là những uẩn tinh khiết, không có yếu tố nào khác pha lẫn vào. Không còn chất độc, không còn tính chất gây hại. Các uẩn vẫn như trước khi chứng ngộ, không thêm cũng không bớt. Chúng vẫn tác hành theo lệnh của tâm giờ đây đã thoát khỏi mọi hình thức luyến ái vào chúng. Mỗi uẩn hoạt động trong phạm vi của nó, thật như nhau trong lĩnh vực riêng của mình. Không còn xung khắc hay tranh đấu với nhau, vì cả hai đã mát mẻ theo cách của riêng mình. Việc cộng tác này tiếp tục cho đến khi hai bên tách rời ra, mỗi phần đi một ngả. Cái tâm đã được thanh lọc chừng đó trở thành yathādīpo ca nibutto – lửa tắt (vì hết nhiên liệu).

Đến đây đã tới giới hạn của ngôn ngữ quy ước phàm tục. Không thể mô tả hơn được nữa. Đó là những gì xảy đến với Ngài Acharn trong đêm có nhiều biến cố quan trọng này, khi cả ba vòng của “vòng quay ba lớp”, ranh giới giữa thế gian phàm tục và Giải thoát đã được phân định (mặc dù thế gian phàm tục và Giải thoát vẫn tiếp tục cùng hoạt động một thời gian nữa).

Trong phần còn lại của đêm ấy, ngài Acharn cảm xúc đến rơi lụy vì saṁvega (nỗi buồn vô hạn) vì vô minh trong quá khứ của Ngài đã làm Ngài trải qua đau khổ vô cùng tận trong vòng quay những lần sanh và tử. Với thức tỉnh cuối cùng và những chứng ngộ Giáo Pháp mà Đức Phật đã tuyên ngôn hơn 2.000 năm về trước, Ngài giống như người lữ hành đơn độc và mệt mỏi, tình cờ gặp được một ao hồ rộng lớn, nước trong veo, mời khách giải khát để bồi bổ sức khỏe. Ngài cảm thấy như mình có thể cung kính đảnh lễ Tam Bảo ngày đêm, suốt trọn đời, cũng vẫn chưa bày tỏ hết lòng biết ơn của mình đối với Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo của những vị thời xưa đã noi theo cùng một Đạo Lộ. Vào lúc bấy giờ nếu có ai nhìn thấy Ngài đang cung kính quỳ lạy, lệ tuôn đầy mặt, chắc tưởng Ngài vô cùng đau khổ, đang van nài cầu xin thần linh cứu giúp. Nhưng những giọt lệ và những cái vái lạy này chỉ biểu lộ lòng tri ân sâu xa và khiêm nhường nhất đối với những gì đã từ bi dẫn dắt Ngài đến sự khám phá vĩ đại nhất trong đời. Vị tỳ khưu đang quỳ lạy với mặt mày đầy nước mắt kia đã chứng ngộ Phật, Pháp, Tăng trong tâm. Đức Phật dạy: “Người nào thấy Giáo Pháp là thấy Như Lai, thấy Như Lai là thấy Giáo Pháp.”

Đêm ấy, chư thiên trong các cảnh giới trời đồng thanh tán tụng sự chứng ngộ của Ngài Acharn, tiếng vang dội cùng khắp tam giới, rồi đến đảnh lễ Ngài và tôn kính Ngài thuyết giảng cho một thời Pháp, nhưng vì còn mê mải trong Giáo Pháp Tối Thượng, và sẽ còn ở trong trạng thái ấy ít lâu, nên Ngài mời chư vị trở lại sau. Các vị trời hiểu ý Ngài, bái từ trở về cảnh giới của mình, lòng vô cùng hoan hỷ vì được yết kiến một vịvisuddhideva (10) trong đêm đầu tiên khi Ngài vừa chứng đắc.

Tảng sáng sau thời thiền tọa, Ngài Acharn ôn lại những kinh ngạc tuyệt diệu vừa qua trong đêm, và hết lòng cảm tạ những người dân trong làng thường ngày để bát cúng dường mình. Ngài cũng hết lòng tri ân cội cây Ngài ngồi hành thiền dưới gốc. Khi đến giờ đi vào làng hành trì bình, thoạt tiên Ngài cảm thấy hôm ấy mình không cần vật thực vì hạnh phúc Giải Thoát mà Ngài trải qua trong đêm đã bồi dưỡng quá đủ. Nhưng vì tâm từ đối với những người trong làng đã thường ngày cung cấp thức ăn, Ngài cảm thấy có bổn phận phải vào trong xóm làng người thượng này như thường lệ.

Hôm ấy, đối với dân trong làng, những người sớt thức ăn vào bát Ngài, những người đang làm việc trong nhà, và những trẻ em đang vui vẻ chơi đùa trước sân nhà đầy cát bụi, tâm từ của Ngài lên đến một mức độ đặc biệt. Ngài lưu tâm quan sát họ với tâm từ nhiều hơn, trong những ngày trước Ngài không hề đặc biệt để ý đến ai. Và người trong làng cũng vui vẻ hơn, khi thấy Ngài từ xa đi dần đến thì ai nấy cũng có một nụ cười thân ái để chào đón.

Khi trở về nơi trú ngụ trên núi, thân của Ngài không có vẻ gì cần đến vật thực vì Ngài vẫn còn an hưởng hương vị của Giáo Pháp. Ngài không thấy đói, cũng không thấy mệt, nhưng bởi vì sẵn có thức ăn nên Ngài dùng để bảo trì sức khỏe vì không thể nhịn đói quá lâu. Nhưng đối với Ngài lúc bấy giờ thức ăn không còn hương vị nữa, vì đã bị hương vị của Giáo Pháp lấn áp toàn diện. Trong tiếng Pāli có câu sabbarasaṁ dhammaraso janāti – hương vị của Giáo Pháp thắng mọi hương vị.

__________

(9). Vòng quay ba lớp – tạm dịch từ “vaṭṭa”, có nghĩa là vòng quay ba lớp của ô nhiễm, nghiệp, và quả - tức ô nhiễm, những hành động được ô nhiễm trợ giúp, và những hậu quả đối với tâm do những hành động do ô nhiễm tạo nên rồi lại tạo thêm những ô nhiễm mới. Như thế vòng quay này liên tục không ngừng.

(10). Có ba hạng deva (trời) là: sammatideva, những vị trời theo phong tục tập quán, ám chỉ những vị vua. Theo phong tục, trong tiếng Pāli người ta dùng từ deva (trời) để tôn trọng xưng hô với những vị vua. Hạng thứ nhì là uppatideva, những vị sanh ra là trời, hàm ý những chúng sanh vô hình trong cảnh trời. Những vị này có thể phân làm ba loại: các vị trời trên quả địa cầu, những vị trên các cảnh trời và các vị trời cao hơn hết được gọi là Brahma, Phạm Thiên. Loại trời thứ ba được gọi là visuddhideva, những vị trời có tâm tuyệt đối trong sạch, ám chỉ những Thánh Đệ Tử cao cả nhất, chư vị A La Hán. Ngài Acharn giờ đây đã trở thành bậc visuddhideva do sự chứng đắc cùng tột của Ngài.


^^^


66. Chư thiên bày tỏ lòng thán phục 


Vào đêm hôm sau, chư thiên từ nhiều cảnh giới khác nhau và từ hầu hết tất cả mọi hướng – những vị hết lòng tôn kính Giáo Pháp – đến viếng Ngài một lần nữa. Họ nói với Ngài rằng đêm hôm trước họ đã thấy ánh sáng rạng ngời của Giáo Pháp, dường như tất cả những cảnh giới vô tình trong Tam Giới, dẫu cao hay thấp, đều thình lình ngạc nhiên kinh sợ trước ánh sáng chói lòa rọi sâu vào cảnh giới mình. Nhờ ánh sáng này, những vị mà tâm đã phát triển đến một mức độ hiểu biết nào chắc chắn thấy xuyên qua những cảnh giới khác mà trước kia họ chưa từng thấy hay chưa từng biết.

“Ánh sáng của Giáo Pháp phát tỏa ra từ Thánh Thể của Ngài còn sáng tỏ hơn “cả trăm ngàn lần ánh sáng mặt trời”, họ nói như vậy. “Người chưa từng trông thấy hay chưa từng hay biết gì đến những kỳ diệu vô cùng lạ thường này quả thật đáng được thương hại vì họ đã lỡ mất một cơ hội vàng ngọc trong đời họ. Chư thiên trong những cảnh giới khác nhau không thể cưỡng lại ý muốn bày tỏ lòng khâm phục và sững sờ kinh ngạc của mình đối với sự chứng ngộ của bậc “Thánh.” Thành tựu của Ngài quả thật vĩ đại và huyền diệu phi thường. Ánh sáng thần diệu ấy đã bao trùm vô số chúng sanh trong những cảnh giới khác nhau, và tất cả mọi người đều chứng nghiệm một niềm hạnh phúc mà họ chưa bao giờ được biết. Rất nhiều những chúng sanh trong thế gian đã lỡ mất cơ hội siêu tuyệt này mà chúng tôi hiện đang thọ hưởng.”

Rồi Ngài Acharn làm cho họ hoan hỷ với một thời Pháp để họ tiến lên một cảnh giới sanh tồn cao hơn. Sau khi các vị trời bái từ ra về, Ngài Acharn ôn duyệt lại phương cách thực hành mà Ngài đã đặc biệt theo đuổi với đầy khó khăn và nguy hiểm, có thể gọi là “Con Đường Xuyên Qua Ngưỡng Cửa của Thần Chết.” Ngài thấy hiển nhiên là nếu không dũng cảm chịu đựng một loạt những thử thách cam go lặp đi lặp lại, ắt Ngài không thể hoàn thành viên mãn ý nguyện thành tựu Mục Tiêu Cùng Tột.

^^^


67. Bà vợ của Ngài (trong những kiếp trước) 


Sau đó không bao lâu có một sự kiện kỳ lạ xảy đến Ngài Acharn. Người viết xin độc giả thứ lỗi nếu câu chuyện tường thuật sau đây không được thích hợp. Vì một chuyện như thế có thể xảy ra với mọi người nên người viết quyết định thuật lại để cho những ai có khả năng có dịp học hỏi. Câu chuyện liên quan đến bà vợ của Ngài Acharn trong những kiếp quá khứ.

Ngài Acharn và bà vợ đã cùng có lời nguyện sẽ trở thành Phật trong tương lai. Lúc Ngài chưa thành tựu Đạo Quả cuối cùng, trong khi ngồi thiền, thỉnh thoảng bà đến viếng thăm dưới dạng một chúng sanh vô hình. Ngài giảng dạy bà rồi khuyên bảo bà đi. Bà không thể tái sanh vào cảnh giới nào tương đối thường còn vì lo về Ngài. Bà sợ Ngài quên mất những kiếp cùng chung sống với nhau và quên lời nguyện sẽ trở thành Phật. Vì lẽ ấy bà buộc phải thường xuyên đến thăm Ngài. Ngài Acharn đã nói với bà rằng, Ngài đã từ bỏ lời nguyện cũ để đi theo con đường Chấm Dứt Đau Khổ trong chính kiếp sống này. Phải sanh thêm nhiều lần nữa có nghĩa là phải chết thêm nhiều lần, và do đó phải gánh chịu thêm nhiều đau khổ. Nhưng lần này bà đến để đáp lại ý của Ngài đang nghĩ đến bà. Trong quá khứ, cả hai đã cùng chia sẻ với nhau hạnh phúc và đau khổ trong thời gian quá lâu nên giờ đây Ngài muốn cho bà biết thành tựu của mình để cho bà không còn bận tâm lo lắng cho Ngài. Vì quá lo cho Ngài nên bà ở mãi trong một cảnh giới vi tế, và do vậy có thân vô hình.

Bà muốn đến thường xuyên hơn nhưng không dám vì ngại, mặc dù biết rằng trong thực tế không có gì là sai quấy cho Ngài hoặc bà trong hoàn cảnh ấy. Ngài Acharn có nói rằng Ngài không muốn bà đến thường xuyên vì điều ấy có thể làm trì trệ mức tinh tấn hành thiền của Ngài chớ không phải vì có gì không tốt như trong cảnh người. “Tâm thật vô cùng tế nhị”, Ngài Acharn thường nói như vậy. “Dù chỉ có một sự can thiệp rất tế nhị cũng có thể là một trở ngại, ngăn chặn bước tiến của pháp hành.”

Bà đã biết về sự Chứng Ngộ cùng tột của Ngài trong đêm hôm trước, nhưng thay vì hoan hỷ vui vẻ bà lại sầu muộn và có cảm tưởng như bị bỏ rơi.

“Giờ đây Ông đã thoát ra khỏi đại dương đau khổ này”, bà than phiền. “Từ nay tôi sẽ không còn có ai để xin lời khuyên và nhờ giúp đỡ. Ông đã như ngôi sao sáng ngời xa thẳm trên trời cao, còn tôi thì đang chiến đấu một mình trong biển cả mênh mông này.” Và bà van lơn. “Xuyên qua ánh sáng tâm từ của Ông, xin Ông vui lòng mở lượng hải hà ra tay cứu hộ, giúp cho tôi có đủ khả năng thành đạt trạng thái Chấm Dứt Đau Khổ trong một tương lai gần đây.”

“Tôi không muốn bà mãi ưu phiền, sầu thảm và buồn rầu.” Ngài Acharn an ủi bà. “Không phải vì vậy mà tôi muốn bà đến đây. Đây chắc chắn không phải là cách ứng xử của một người có thiện tâm. Bà có nhớ chăng khi chúng ta cùng trau dồi và phát triển Tứ Vô Lượng Tâm, Brahmavihāra (từ, bi, hỷ, xả) không?”

“Tôi còn nhớ rõ ràng,” bà nói, “bởi vì chúng ta cùng nhau phát triển những phẩm hạnh này trong một thời gian rất lâu. Nhưng nay Ông đã vượt thoát khỏi thế gian phàm tục này thì tôi thấy mình hình như bị bỏ rơi và cảm thấy vô cùng phiền muộn.”

“Bà phải nhớ rõ mục tiêu chính của hành động thiện là gì,” Ngài Acharn nói. “Mục tiêu của việc tu tập Giáo Pháp, dù là tự thực hành vì chính mình đã chắc chắn như vậy hay làm theo lời dạy của ai khác, đều là để loại trừ hay để làm vơi bớt khổ đau. Không phải thực hành Giáo Pháp để chồng chất thêm những phiền lụy, chỉ tạo khổ đau ngày càng nặng trĩu cho mình.”

“Tôi biết rằng những lời Ông nói là đúng,” bà nói, “nhưng đối với người thế gian phàm tục còn chưa tuyệt đối thanh lọc ô nhiễm, không thể cưỡng lại những cảm giác mạnh mẽ thấm sâu trong lòng.”

Ngài Acharn nói, “Dù mình cùng ăn chung với nhau một mâm, thế nào cũng phải có người sẽ ngưng đũa trước và người kia dừng ăn sau. Không thể hy vọng là cả hai đều buông đũa xuống ngay cùng một lúc. Cũng như vậy đối với hai hay nhiều người chung cùng tích trữ phước báu. Trường hợp của Đức Phật và Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La) là một thí dụ điển hình. Đức Phật thành đạt mục tiêu trước, và sau đó trở về giúp cho công chúa tiến bộ trên cùng một con đường. Đó là bài học quý giá. Ta nên rút bài học từ đó thì có lợi hơn là để mình đắm chìm trong những nỗi ưu sầu và phiền trách số phận một cách chua cay.

“Không bao giờ tôi có ý nghĩ bỏ rơi, để mặc bà đơn độc cho số phận. Hôm nay tôi mời bà đến đây vì lòng từ bi lo nghĩ đến tình trạng an lành và sự phát triển của bà. Bà càng thực hành đúng theo những lời dạy của tôi ngày hôm nay thì tôi càng hoan hỷ với tiến bộ và thành công của bà. Nếu bà vẫn giữ tốt được việc thực hành Giáo Pháp thì tôi không cần lo cho bà nữa.”

Nguyện vọng trước kia sẽ trở thành Phật của hai người, và về sau, quyết định của Ngài Acharn là trở thành chư vị Thánh Đệ Tử của Đức Phật cùng dẫn đến một mục tiêu là Chấm Dứt Đau Khổ, tức bẻ gãy vòng quay những kiếp sanh tử triền miên. Luôn luôn có quan hệ chặt chẽ giữa phước báu tích trữ và kết quả thu được. Ngài luôn đưa những lời dạy bảo và khuyên nhủ tận tình và không bao giờ thiếu sót. Tất cả đều biểu lộ thiện tâm từ ái, không bao giờ có ý muốn trốn tránh hay lìa bỏ bà đơn độc. Những lời than phiền chua cay của bà như vậy gây trở ngại cho tiến bộ của bà và chỉ tạo khổ đau bất lợi. Không bao giờ sự Giải Thoát của Ngài có thể được hiểu là để bỏ rơi bà, và nếu có lời giải thích như thế thì những lời khuyên dạy và an ủi của Ngài là để làm gì? Tâm từ của Ngài đối với bà quả là thành thật và vô lượng vô biên. Bà nên hiểu như vậy và nên cố gắng thực hành lời dạy vì đó là cho lợi ích của chính bà.

Từ ngày xuất gia, Ngài Acharn không nhớ có lúc nào muốn cho bà lẻ loi chiến đấu một mình. Bà tìm được chăng một người có tâm từ nhiều hơn như vậy? Ngài cũng dạy rằng bà nên lấy làm hoan hỷ vì đã thấy được ánh sáng phát tỏa ra từ thân Ngài trong đêm hôm trước, mặc dù còn ở trong cảnh giới vi tế nên rất có thể không hay biết gì đến điều ấy. Hơn nữa, bà có duyên may được cơ hội lắng nghe những lời dạy có thể đưa bà ra khỏi đêm tối của vô minh nếu kính cẩn lưu tâm đến lời dạy. Nếu bà không làm được vậy thì bao nhiêu Giáo Pháp trong lời dạy của Ngài và bao nhiêu tâm từ của Ngài chắc chắn cũng sẽ không đưa đến lợi ích nào.

^^^


68. Hôn nhân có thể tạo địa ngục hay thiên đàng trên cõi trần gian 


Những lời khuyên dạy và giải thích của Ngài Acharn tựa hồ như nước từ một ngọn suối trên núi ở cảnh trời rưới xuống làm mát mẻ cái tâm chao động của bà và dập tắt những ngọn lửa buồn phiền và sầu não. Tâm trở nên dịu hiền mát mẻ rồi tĩnh lặng, bà cảm nhận bao nhiêu lỗi lầm trọng đại mà mình đã phạm. Bà nhận lỗi và lấy làm tiếc rằng chính tự ái của mình đã làm phiền lòng Ngài. Giờ đây bà có thể thấy ánh sáng của Giáo Pháp. Tâm bà mát mẻ nhờ nước của cảnh trời, gánh nặng phiền não đã được đặt xuống.

“Cúi xin Ngài từ bi tha lỗi,” bà van xin, “để rồi trong tương lai tôi có thể tự kiểm soát tốt hơn, không còn như vậy nữa.”

Sau đó, Ngài Acharn khuyên bà tái sanh vào cảnh giới tương xứng với sự tỉnh ngộ của mình, không nên để cho tâm lo âu và chao động của chính mình khuấy rối một cách bất lợi. Bà hoan hỷ vâng lời và xin Ngài ban cho duyên lành thỉnh thoảng được phép đến viếng thăm và nghe giảng. Ngài bằng lòng và bà đột nhiên biến mất và Ngài xuất thiền và thấy lúc ấy là năm giờ sáng. Ngài đã không ngủ từ tám giờ tối hôm trước sau khi thiền hành. Cuộc đàm thoại giữa Ngài Acharn và bà vợ từ những kiếp quá khứ - giờ đây là một chúng sanh vô hình – đã kéo dài nhiều giờ.

Không bao lâu sau, bà trở lại và nghe Ngài giảng một thời Pháp, bấy giờ là một tiên nữ xinh đẹp, nhưng theo đặc tính của chư thiên khi đến thăm một vị sư mà họ kính trọng thì không trang sức gì như thường mang ở cảnh giới của mình. Nhờ đã có tích trữ nhiều phước báu trong những kiếp làm vợ Ngài, khi tâm mát mẻ nhờ tỉnh ngộ, bà đã tức khắc hóa sanh vào cảnh trời Tāvatiṁsa (Đạo Lợi hay Tam Thập Tam Thiên), một cảnh giới có tiện nghi và lạc thú đủ loại. Bà không bao giờ quên rằng tất cả những hạnh phúc mà mình đang thọ hưởng là thành quả nhờ làm theo những lời khuyên dạy của Ngài. Không có Ngài chỉ dạy thì bà không được hạnh phúc thế. Giữa lúc an hưởng những thú vui đó, và nhận ra những gì đã giúp bà được như thế. Lòng từ ái của Ngài đối với bà quả thật vô biên, không bao giờ bà có thể đền đáp đầy đủ.

Rồi bà nhận thức rằng thận trọng lựa chọn bất kỳ cái gì để dùng và bất kỳ ai để mình gần gũi kết hợp quan trọng như thế nào. Điều quan trọng nhất đối với người cư sỹ là chọn vợ kén chồng, không phải chỉ là chọn người sẽ sống chung với mình, mà là chọn người sẽ thở chung với mình, cùng chia sẻ với mình những cay đắng ngọt bùi. Những gì ảnh hưởng đến người này sẽ ảnh hưởng đến người kia. Có một người bạn đời tốt là phước báu to lớn. Chồng hay vợ có thể ở trong một địa vị xã hội thấp kém, kém thông minh, hoặc nữa là người xã giao kém lịch sự, nhưng vợ chồng là người bạn ngăn ngừa cho người kia khỏi đi trên con đường bất thiện và dẫn dắt họ vào con đường chân chánh. Tuy nhiên, nếu cả hai đều đủ tốt để hoan hỷ giúp nhau phát triển thì ngôi nhà sẽ là tổ ấm, hay hơn nữa, là thiên đàng trên cõi trần. Sẽ không có những cuộc cãi vã hay vạch lá tìm sâu để bắt lỗi nhau vì cả hai đều biết tự kiểm soát, khép những suy nghĩ và hành động của mình vào khuôn khổ kỷ cương của Thiện Pháp. Hai bên kết hợp với nhau trong cuộc hôn nhân có thể xem như xây đắp địa ngục hay kiến tạo thiên đàng trên cõi trần, cùng chia sẻ với nhau những nỗi khổ đau cũng như những niềm hạnh phúc, tùy vào việc họ vui vẻ làm việc thiện hay thích thú làm điều ác. Điều này ảnh hưởng đến kiếp sống tương lai cũng như kiếp hiện tại.

Điều này đã được thấy hiển nhiên trong trường hợp của vị tiên nữ này đã vâng theo những lời dạy của Ngài Acharn, tránh nuôi dưỡng ác pháp và tích trữ thiện pháp. Kết quả của việc tu tập đó là bà thoát khỏi hiểm nguy và đau khổ vô ích. Ngài Acharn tha thứ những hiểu lầm và phiền trách chua cay của bà để giúp bà không giữ trong lòng cảm nghĩ tội lỗi, rồi thuyết một thời Pháp và bà hoan hỷ lắng nghe. Sau đó bà – giờ đây là một vì tiên nữ đầy hạnh phúc – đảnh lễ bái từ và nhiễu ba vòng quanh Ngài, vai phải hướng về phía Ngài, rồi đi lui cách Ngài xa xa và bay lên không trung, trở về cảnh giới của bà với lòng biết ơn và hoan hỷ.

^^^


69. Lời tán dương của chư Phật và chư vị đệ tử A La Hán 


Vào những đêm sau khi Ngài Acharn chứng ngộ Đạo Quả cùng tột, một số chư Phật và chư vị đệ tử A La Hán đến thăm để tán dương sự Giải Thoát của Ngài. Có đêm có một vị Phật cùng mười ngàn đệ tử đến, và vào đêm khác có vị Phật khác đến cùng hàng trăm ngàn đệ tử A La Hán. Số đệ tử A La Hán của mỗi vị Phật khác nhau, tùy mức độ chứng đắc của mỗi vị. Tuy nhiên, số lượng những vị đệ tử tháp tùng theo một vị Phật không phải thật sự là số đệ tử của Ngài. Đó chỉ là tượng trưng, đại diện cho số đệ tử của vị này so với vị khác. Trong chư vị đệ tử A La Hán cũng có một số vị sāmaṇera theo cùng. Trong nghĩa trừu tượng và vô nhân xưng, từ A La Hán được dùng cho cả các vị sāmaṇera cũng như bhikkhu.

Chư Phật chỉ dạy cho Ngài Acharn về nhiều điểm, “Các đấng Như Lai (từ mà các vị Phật dùng khi nói đến mình, tương đương từ “Tôi”) hay biết rằng Sư đã thoát khỏi ngục tù vĩ đại của vòng quay (vaṭṭa) sanh – tử nên đến để tán thưởng công đức Sư. Thế gian là ngục tù rộng lớn mênh mông, được canh giữ vô cùng nghiêm ngặt và chứa đầy những loại quyến rũ và cám dỗ, tất cả đều nhằm vào mục tiêu siết chặt vòng kìm kẹp và làm mù quáng tù nhân, mà không biết một điều là họ phải làm tù nhân mất tự do chỉ vì sự lợi dưỡng trong dục lạc của chính mình. Giống như người đang chịu đau khổ trong một căn bệnh mà không có ý muốn tìm thuốc chữa. Trong trường hợp ấy, thuốc nào cũng là vô ích. Giáo Pháp của Như Lai cũng giống như loại thuốc có khả năng chữa bệnh. Chúng sanh đau khổ vì chứng bệnh trầm kha do nọc độc của mũi tên ô nhiễm của chính mình. Chứng bệnh của họ xem chừng vô phương cứu chữa, nhất là khi mà bệnh nhân còn từ chối, không chấp nhận Giáo Pháp để cứu chữa. Họ phải chịu đau khổ vì những lần sanh tử cùng với chứng bệnh của thân và tâm khác. Do đó, tuy Giáo Pháp ở quanh họ nhưng không giúp được gì, vì họ không quan tâm, cũng không dám nhìn đến, không lắng nghe và áp dụng thực hành.

“Như vậy có Giáo Pháp, và cũng có những chúng sanh quay cuồng trong những cơn giông tố của đau khổ của chính mình. Nếu họ không nhận ra và thực hành Giáo Pháp thì không ai có thể giúp họ. Chư Phật có thể đến rồi đi, nhưng chứng bệnh vẫn còn đó để gây đau khổ cho những ai không học. Bức thông điệp của tất cả chư Phật đều giống nhau vì ô nhiễm trong tâm của chúng sanh đều giống nhau, không có loại ô nhiễm nào vượt qua được khả năng khám phá và tận diệt của Phật Pháp, trừ khi con người tự ngụp lặn trong chính ô nhiễm của họ và do đó thấy Giáo Pháp thấp kém hơn ô nhiễm.

“Giáo Pháp đối nghịch với ô nhiễm. Người noi theo con đường của Giáo Pháp phải chống lại, không tuân hành theo lệnh của ô nhiễm, còn người vâng lệnh của ô nhiễm thì chống lại Giáo Pháp, lý luận rằng Giáo Pháp quấy rầy, làm cho họ khó chịu vì mất đi những thú vui của đời sống. Nhưng người sáng suốt biết suy luận và phân biệt, sẽ không bó tay hàng phục như vậy. Người có trí sẽ không bao giờ như con rùa chịu nằm yên trong chảo nước sôi đến chết. Tương tự như vậy, người thế gian bị chính ô nhiễm của mình nấu chín trong chảo nước sôi của nó không biết cách nào thoát ra khỏi. Tất cả chúng sanh đều như vậy, dù sống trong nước, trên cạn, trên không trung hay trong lòng đất. Dầu sôi, lửa bỏng nằm trong tâm của chính họ. Bất luận đi đâu hay ở nơi nào họ vẫn đem lửa nóng theo với họ.

“Giờ đây Sư đã thấy Như Lai và đã biết rằng đây không phải gì khác hơn là cái tâm hoàn toàn thanh tịnh, tuyệt đối trong sạch. Như Lai chỉ đến đây dưới hình thức sammati (hình tướng giả định, giả thuyết, thế gian hay tương đối).”

Lúc bấy giờ Ngài Acharn cung kính bạch, “Không bao giờ con có ý hoài nghi Đức Phật và chư vị đệ tử A La Hán, nhưng làm thế nào, sau khi đã nhập anupādisesa-nibbāna (đã tịch diệt hoàn toàn, không gì còn lại) mà các Ngài còn có thể trở lại dưới hình dáng này?”

Đức Phật đáp, “Hình tướng tạm thời này cần thiết cho người đã thành tựu trạng thái tuyệt đối trong sạch mà không còn hình tướng, để đến gặp người đã thành tựu trạng thái tuyệt đối trong sạch mà còn mang hình tướng thế gian. Nhưng khi cả hai đều đã nhập anupādisesa-nibbāna, Vô Dư Niết Bàn, thì hình dáng phàm tục này không còn cần thiết nữa. Giữa các vị Phật cũng vậy, vị nào muốn biết về các vị Phật trước mình cũng phải bắt đầu từ việc lấy tướng thế gian trước, rồi dùng nó như một phương diện truyền thông. Không có hình tướng biểu lộ nào trong trạng thái giải thoát tuyệt đối. Vì lẽ ấy Như Lai và chư vị đệ tử A La Hán tự biểu hiện hình thức thế gian để Sư có thể thấy và biết một vị Phật và chư vị A La Hán trông thế nào.”

“Nói cách khác, khi tiếp xúc mà cần hình dạng thế gian thì cần phải lấy hình dạng người thế gian để tiếp xúc được. Nhưng cần giao dịch giữa những vị đã tuyệt đối giải thoát thì không cần hình tướng của một cõi thế gian nữa vì cả hai đều đã tương đương và giống hệt nhau. Tuy nhiên, khi cần cho biết tính chất thì hình dạng thế gian lại cần thiết như một sự đối lập để ta có thể hiểu rằng giải thoát hoàn toàn là không còn dấu hiệu, hình dáng hay biểu hiện, mà chỉ tuyệt vời một cách tự nhiên và cũng luôn được an tĩnh hỷ lạc không thể so sánh được. Những ai hiểu điều này không nghi ngờ gì việc giải thoát hoàn toàn chỉ là cách thể hiện hay mô tả qua hình thức thế gian (nói một cách tương đối) và giải thoát tuyệt đối tồn tại tự nó không phụ thuộc vào bất kỳ cái gì.”

Rồi Đức Phật hỏi Ngài Acharn, “Sư hỏi như vậy có phải vì còn hoài nghi hay chỉ để chào hỏi?”

Ngài Acharn trả lời, “Vì muốn chào mừng mà con hỏi Ngài vì trong thực tế con không còn hoài nghi gì nữa về thế gian phàm tục hay tuyệt đối giải thoát, cũng không còn hoài nghi Đức Phật, Pháp Bảo và Tăng Bảo, chính vì con đã tự mình chứng ngộ lời dạy “Người nào thấy Giáo Pháp là thấy Như Lai.” Câu này chỉ rõ ràng Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già không phải gì khác hơn là tình trạng tuyệt đối thanh tịnh và hoàn toàn thoát ra khỏi cảnh giới phàm tục. Dù Đức Phật và chư vị Đệ Tử La Hán có đến hay không, việc ấy không thể đổi thay lòng tin chắc của con vì con đã chứng ngộ như vậy.”

Chừng đó Đức Phật nói rằng Ngài cũng biết ý định của Ngài Acharn chỉ là muốn chào hỏi.

Cũng nên ghi nhận rằng chư vị đệ tử A La Hán tháp tùng theo Đức Phật không nói gì, chỉ ngồi yên một cách nghiêm chỉnh nơi chỗ của mình. Cả đến những vị sāmaṇera nhỏ tuổi cũng tôn kính ngồi im lặng trông rất dễ mến, mặc dù (trong con mắt phàm tục), các vị ấy trông dễ thương hơn là oai vệ. Những vị sāmaṇera này khoảng chừng chín đến mười hai tuổi, và thoạt nhìn các Ngài, ta cũng không khỏi có cảm giác như một người lớn gặp một cậu bé con, muốn xoa đầu cậu bé. Ai không biết trước rằng các vị sāmaṇera này đã là A La Hán chắc chắn sẽ làm những việc không bao giờ được phép làm. Ai đã biết rằng các Ngài đã là A La Hán không bao giờ dám nghĩ đến làm một việc như vậy. Cũng như các vị A La Hán khác, các vị sāmaṇera này không hề kém hơn trong thái độ. Do vậy tất cả các chư vị A La Hán, cả bhikkhu và sāmaṇera, đều có phong thái truyền cảm hứng và gây ấn tượng sâu sắc vì các Ngài hoàn toàn tự kiềm chế.

Ví dụ, nếu Ngài Acharn tò mò muốn biết đúng theo truyền thống thì phương cách thiền hành và thiền tọa, cách đắp y trong khi ngồi thiền hay đi kinh hành phải như thế nào, và cách bày tỏ lòng tôn kính ra sao giữa các nhà sư thì Đức Phật hay một vị A La Hán sẽ trình bày phương pháp đúng đắn trong khi Ngài ngồi thiền. Tất cả đều được giải thích với đầy đủ chi tiết. Thí dụ như khi đi kinh hành hai tay phải để như thế nào, chân phải bước như thế nào, và phải tự kiểm soát khi đi như thế nào. Thiền tọa như thế nào cũng được chỉ dẫn đầy đủ, hành giả phải ngồi hướng về phía nào, tư thế phải ra sao v.v.

^^^


70. Tôn kính dựa trên sự phân biệt giữa phàm phu và chư vị đã tuyệt đối giải thoát 


Phương cách mà chư Tăng tôn kính lẫn nhau có những điểm đáng kể. Một lần, Ngài Acharn tò mò muốn biết vào thời Đức Phật chư tăng đảnh lễ nhau như thế nào. Trong khi ngồi thiền Ngài thấy Đức Phật và nhiều vị đệ tử ở nhiều lứa tuổi khác nhau, người thì tóc đã bạc phơ, và cũng có những vị sāmaṇera người lớn, người nhỏ. Các vị không đến cùng một lượt mà đến riêng rẽ từng vị, người trước người sau. Ai đến trước ngồi trước, ai đến sau ngồi sau, theo thứ tự đến. Vị sāmaṇera trẻ tuổi mà đến trước thì cũng ngồi phía trước các vị tỳ khưu, còn vị tỳ khưu già đáng tuổi ông mà đến sau cũng hài lòng ngồi phía sau các vị nhỏ tuổi, không có vẻ gì xấu hổ. Thậm chí Đức Phật mà đến sau, thì Ngài cũng ngồi phía sau chư tỳ khưu và sāmaṇera, không có sự phân biệt nào.

Ngài Acharn có vẻ ngạc nhiên khi thấy tình trạng hình như kém tôn ti trật tự giữa Đức Phật và chư vị đệ tử của Ngài, vốn nổi tiếng là rất trọng kỷ luật và lúc nào cũng trật tự. Nhưng một lát sau, tuy Đức Phật không có một lời giải thích, Ngài Acharn thấm hiểu rằng sự tôn kính lẫn nhau chỉ dựa trên Pháp và giải thoát, không dựa trên chân lý giả định hay chân lý tương đối. Trên nền tảng này, không có sự phân biệt truyền thống và xã hội về cao hạ hay thấp hạ tính theo ngày xuất gia, vì đó chỉ là sự thật tương đối. Từ Đức Phật xuống đến chư vị đệ tử A La Hán và sāmaṇera nhỏ tuổi nhất, tất cả đều ngang hàng nhau về phương diện tuyệt đối trong sạch.

Ngài Acharn lại tự hỏi các Ngài đảnh lễ nhau thế nào theo cách quy ước, thì các Ngài nhanh chóng dời chỗ ngồi. Giờ đây thấy Đức Phật ngồi phía trước nhóm đông, và các vị sāmaṇera khi nãy ngồi phía trước chuyển về phía sau chư vị tỳ khưu, tất cả đều ngồi nơi được sắp xếp theo trật tự xã hội thông thường. Ngài Acharn hiểu rằng chắc chắn đây là nghi thức tôn kính nhau giữa chư tỳ khưu trong thời Đức Phật. Vị tỳ khưu, dù là A La Hán mà nhỏ hạ, phải tôn kính một vị lớn hạ hơn, mặc dù vị này chưa phải là A La Hán.

Sau đó Đức Phật dạy Ngài Acharn, “Chư tỳ khưu của Như Lai có điểm đặc biệt là biết tôn trọng lẫn nhau và luôn luôn giữ thiện ý với nhau, dựa trên sự bình đẳng về danh dự và phẩm giá. Mặc dù là đông, chư đệ tử của Như Lai không có thái độ tranh cãi hay lấn lướt nhau. Một nhóm tỳ khưu mà không biết tôn trọng lẫn nhau và không đối xử với nhau đúng theo Giáo Pháp và Giới Luật (Dhamma và Vinaya) – được xem là Thầy khi vắng mặt Đức Phật – thì không thể gọi là tỳ khưu của Như Lai. Có những vị tỳ khưu giả danh, chỉ tự xưng là tỳ khưu. Trái lại, một nhóm tỳ khưu thận trọng vâng giữ hành theo Giáo Pháp và Giới Luật, ắt xứng đáng được gọi là tỳ khưu của Như Lai, bất luận là xuất gia tại đâu, là ai, hay bất luận là người quốc gia nào hay ở trong giai cấp nào. Đó là tất cả những người bước theo dấu chân của Như Lai và chắc chắn trước sau sẽ thành tựu sự Chấm Dứt Đau Khổ.”

Sau khi giảng dạy vắn tắt như vậy, Đức Phật và chư vị đệ tử A La Hán của Ngài tức khắc biến mất, và Ngài Acharn tin chắc vào sự thật của những điều Ngài đã thấy.

^^^


71. Xác chết không có nghĩa địa 


Thậm chí đến việc phải đắp y như thế nào trong lúc thiền hành hay thiền tọa cũng được một vị đệ tử A La Hán chỉ dạy, khi Ngài Acharn thắc mắc xem phải làm như thế nào cho thật đúng cách. Vị đệ tử A La Hán ấy chỉ cho Ngài cách ngồi thiền, khi mặc và khi không mặc y tăng già lê (sanghati) và nói thêm rằng có mặc hay không cũng không cần thiết. Ngài cũng chỉ về những màu của y có ba sắc nâu-vàng khác nhau, nhuộm bằng thân hoặc lõi cây mít, màu nhạt, màu vừa, và màu sậm. Điều này cho thấy rằng lối thực hành của Ngài Acharn cũng đúng theo truyền thống của chư vị Thánh Đệ Tử, không khi nào là do Ngài phỏng ước hay đoán chừng. Vì lẽ ấy pháp hành của Ngài tiến triển đều đặn và suôn sẻ, khó ai sánh bằng trong thời hiện đại. Những vị đệ tử theo truyền thống của Ngài cũng thọ nhận được nhiều ảnh hưởng lợi lạc của thầy, còn những vị biến cải pháp hành của Ngài để tiện cho họ thì có thể giống như những xác chết không có nghĩa địa, một đứa trẻ không cha không mẹ, hoặc nữa như trò không thầy. Hình như Ngài Acharn lúc nào cũng được sự hướng dẫn của một trợ lực nào từ bên trong mà không phải ai cũng được dạy bảo, và cũng không phải ai cũng làm được như Ngài.

^^^


72. Đường lối thực hành và giảng dạy tại Chiengmai 


Trừ một mùa an cư kiết hạ mà Ngài Acharn trải qua tại Wat Chedi Luang trong thành phố Chiengmai, trong suốt thời gian mười năm còn lại ở những nơi khác mà Ngài nhập hạ, toàn những nơi rừng hoang vu giữa đủ loại nguy hiểm. Như vậy, cuộc sống của Ngài suốt thời gian thênh thang bất định thực hành hạnh đầu đà quả thật lỗi lạc, xuất chúng, và ngoạn mục phi thường về cả phương diện thực hành, mức độ mạo hiểm và kiến thức thâm sâu trong Giáo Pháp. Trong con mắt thông thường của người đời, sống đơn độc trên những đồi núi và trong rừng sâu thì lúc nào cũng bị đau khổ và lo sợ tràn ngập, nhất là những cơn hãi hùng kinh khủng và lo âu rùng rợn ngày đêm không ngớt quấy rối. Nhưng đối với Ngài Acharn, sống hoàn toàn ẩn dật như thế rất thuận lợi cho sự tinh tấn chuyên cần và cho sức khỏe của thân và tâm. Sự chứng đắc cuối cùng của Ngài đã được thành tựu giữa rừng sâu trong khi sống đơn độc trong một quận người thượng. Chỉ sau đó ít lâu mới có vài vị tỳ khưu thực hành đầu đà đến học với Ngài.

Vài vị trong những vị tỳ khưu đến với Ngài là Ngài Chao Khun Thet của quận Tha Boh trong tỉnh thành Nong Khai, Ngài Phra Acharn Sarn và Phra Acharn Khao ở Wat Tham Klong Phane. Những vị này chỉ ở với Ngài một thời gian rồi vâng lệnh ra đi, tìm nơi ẩn dật cho riêng mình trong những vùng người thượng xa xôi, trong rừng sâu hay trên đồi núi hoang vu. Các xóm làng người thượng là những nơi chỉ có vài ba nhà, có nơi bốn năm, và nơi khác những chín mười gia đình. Đi bát mỗi ngày vừa đủ nuôi thân. Riêng Ngài Acharn lúc nào cũng thích sống lẻ loi đơn độc ở những nơi như vậy.

Cũng nên ghi nhận rằng tất cả những vị tỳ khưu thực hành đầu đà dưới sự hướng dẫn và rèn luyện của Ngài đều vững chí, quyết tâm can đảm đối phó với mọi trở ngại nguy hiểm để mưu tìm Giáo Pháp, dù phải hy sinh mạng sống. Các Ngài chỉ nhắm vào mục tiêu duy nhất là Giáo Pháp, và đặt mục tiêu này lên trên tất cả, kể cả tính mạng mình, và điều quan trọng hơn hết là nơi nào nổi tiếng là có nhiều hùm beo và thú dữ thì Ngài Acharn khuyên nên đến và ở đó. Sống giữa môi trường như vậy bắt buộc lúc nào cũng phải vững chắc giữ chánh niệm và trí tuệ, luôn luôn chuyên cần tinh tấn và như thế sức mạnh ý chí phát triển nhanh chóng hơn là ở nơi không bị nguy hiểm đe dọa.

Chính đời sống của Ngài Acharn cũng ngày đêm thấm nhuần sâu đậm hạnh phúc của sự ẩn dật. Nhưng trong những khi đơn độc tu dưỡng tinh thần giữa rừng sâu, xa cách xóm làng và dân cư thỉnh thoảng Ngài cũng giao tiếp với những chúng sanh vô hình khác nhau như chư thiên trên quả địa cầu, chư thiên trên những cảnh trời, ma, quỉ, long vương và chư Phạm Thiên. Vì đã có nhiều kinh nghiệm với tất cả, nên điều đó không tạo vấn đề cho Ngài. Ngoài những chúng sanh vô hình ấy Ngài cũng giúp đỡ nhiều sắc dân người thượng khác nhau như Ekoh, Khamu, Muser và Maew. Họ rất cảm kích lắng nghe những lời dạy của Ngài và hết lòng tin tưởng đến độ dù có phải hy sinh tánh mạng vì Ngài họ cũng sẵn sàng. Đối với người không quen thuộc với những người này, từ “người thượng”, thường có ý nghĩa xấu, bẩn và thô kệch, man rợ. Nhưng kinh nghiệm của Ngài với họ thì trái ngược hẳn. Ngài thấy họ cũng dáng điệu đẹp đẽ, da trắng và không hề bẩn. Họ là những người có văn hóa, có những phong cách và kỷ luật của chính họ. Họ cũng đoàn kết và cung kính tuân lời những vị lãnh tụ của họ. Với văn hóa và tập tục của họ, từ “rừng rú” thay vì hàm ý hung bạo hay man rợ, mỉa mai thay lại cho thấy bản tính thật thà và đạo đức, không có tội ác vì tham ái và hung bạo như ta có thể dễ dàng thấy trong những khu rừng bê tông của các đô thị và phố phường. Rừng của cây cối và muông thú, nghĩ theo một cách khác, còn an toàn và thoải mái hơn là sống giữa rừng bê tông cốt sắt của thị thành, đầy hiểm họa ô nhiễm hung bạo độc ác của tham ái, sân hận và si mê.

Đây là một khu rừng bí hiểm trong đó nhiều loài thú “hoang dại và hung tợn” của ô nhiễm sống và đi thành từng bầy, tấn công con người một cách bí hiểm, gây nhiều thương tích khó lành. Những vết thương ấy không những gây hại cho sức khỏe của thân mà còn cả tâm nữa. Quả thật mỉa mai khi thấy rằng rất ít người, nếu có, cư ngụ trong thành phố này mà quan tâm đến các vết thương của mình, và không có ai có ý muốn tìm thuốc chữa. Vết thương bị “nhiễm trùng” và trở thành một bệnh dịch kinh niên. Loại rừng này nằm trong tâm tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà, tỳ khưu và sāmaṇera.

Những cuộc tấn công lén lút của ô nhiễm thật khó cho ta đề phòng. Vì lẽ ấy Ngài Acharn thích ở những nơi rừng hoang để Ngài rảnh tay đối phó với những con thú hung bạo bên trong. Chính ở những vùng rừng sâu này mà Ngài có thể thuần hóa những con thú hoang này hay đuổi chúng ra khỏi tâm. Con người là một tạo vật thông minh, và như vậy, chớ nên để làm cho những con thú hoang trong lòng áp đảo và đè bẹp mà phải can đảm chiến đấu chống lại nó, như vậy mới đáng gọi là con người.

Trong môi trường như vậy, mỗi khi có một vị tỳ khưu đến để được tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài, lời dạy của Ngài lúc nào cũng kêu gọi tuyệt đối tự hy sinh và dũng cảm chiến đấu. Những lời dạy như thế do đó thích hợp với những vị giống như Ngài, sẵn sàng đương đầu mọi thử thách. Họ muốn dù có chết, trước đó phải cang cường chiến đấu, tận lực chống chọi đến cùng, và nếu sống sót, họ sẽ nhẹ lòng biết rằng tối thiểu mình cũng đã thành tựu một mức độ trí tuệ minh sát và giải thoát nào, rằng họ sẽ không còn phải khổ đau vô cùng tận với những lần tái sanh và tái tử triền miên trong những cảnh giới vô thường biến đổi.

Đó là phương cách giáo huấn đặc biệt lỗi lạc của Ngài tại Chiengmai, có phần khác hơn lối dạy ở những nơi khác trước đó. Tại đây những lời dạy của Ngài tuyệt đối cứng rắn, và không chấp nhận ôn hòa. Tuy nhiên, cách dạy này thích hợp với những vị đã đến với Ngài để học, để chăm chú lắng nghe, chỉ cố gắng tự quán sát những con thú hung dữ bên trong mình, không bao giờ than phiền là những lời dạy của Ngài quá hà khắc. Giáo huấn của Ngài càng mạnh mẽ, Giáp Pháp càng sâu sắc, tâm người nghe càng vững chắc quân bình, chánh niệm và trí tuệ càng phát triển. Đường lối dạy dỗ của Ngài tại Chiengmai vô cùng thâm sâu vì sự chứng đắc của Ngài đã đến mức cao siêu nhất và mục tiêu của những vị đệ tử dhūtaṅga bhikkhu của Ngài cũng dũng cảm nhất một cách tương xứng, chỉ là Chấm Dứt Đau Khổ trong tâm. Ngoài những chỉ dạy thông thường còn có kỹ thuật đặc biệt để khám phá mánh khóe của cái tâm tránh né tài tình. Kỹ thuật này rất công hiệu để tìm hiểu những trò lừa phỉnh của cái tâm quen thói trốn ra ngoài tìm đến những nơi tiêu khiển vui chơi quen thuộc.

^^^


73. Trường hợp tình yêu sét đánh 


Trong khi cư ngụ tại vùng đồi núi của Chiengmai có một diễn biến kỳ lạ xảy ra giữa những vị đệ tử hành hạnh đầu đà của Ngài Acharn. Câu chuyện sau đây được tường thuật với hy vọng có thể là một bài học cho những ai còn chưa đủ khả năng để hiểu biết những gì mình đã làm trong những kiếp quá khứ. Chuyện này do một vị Acharn trước kia đã ở với Ngài Acharn Mun thuật lại, cho thấy năng lực mạnh mẽ của nghiệp (trong trường hợp này là tình ái), đôi khi trổ sanh một cách lạ kỳ.

Một hôm, có một vị tỳ khưu đang sắp sửa tắm với một vị khác ở một vũng nước gần con đường dẫn đến ruộng của dân làng. Con đường này nằm xa xóm dân cư và thường vắng bóng người qua lại. Trong khi hai vị tỳ khưu sửa soạn tắm thì có một nhóm phụ nữ tình cờ đi ngang qua, điều rất hiếm xảy ra tại đây, vì con đường này thường ngày thật vắng vẻ. Vị tỳ khưu vừa chợt thấy một trong những thiếu nữ và tức khắc yêu cô. Vị tỳ khưu tuyệt đối không thể kiểm soát tình cảm của mình. Vị tỳ khưu lo sợ bị Ngài Acharn hay biết, và cũng sợ hoàn cảnh hiểm nguy không thể cứu chữa cho cuộc đời xuất gia của mình.

Sư thao thức suốt đêm, lo sợ tình cảm kỳ lạ mà có sức mạnh phi thường, chưa bao giờ tưởng tượng được. Sư muốn quên tình cảm đó đi, và suốt đêm tận lực kiểm soát, nhưng hình như nó ngạo nghễ thách thức mọi cố gắng kiểm soát của sư và còn phản công trở lại mỗi khi sư cố gắng. Trong lúc ấy Ngài Acharn đọc được tâm và hay biết cuộc chiến đấu cam khổ của vị tỳ khưu. Sáng hôm sau Ngài không nói gì, thấy sư đã rất sợ Ngài. Mọi quở trách chỉ làm cho vấn đề thêm tệ hại. Ngài chỉ mỉm cười thông cảm khi gặp sư, và mặc dù thấy vị tỳ khưu rõ ràng run sợ, Ngài làm như không nhận thấy.

Khi đến giờ đi vào làng trì bình, Ngài Acharn nói riêng với các vị tỳ khưu khác một cách khác thường mà vẫn để vị này nghe tiếng. Ngài nói bởi vì vị tỳ khưu này đã tận lực cố gắng suốt đêm không ngủ nên hôm nay không cần phải đi trì bình, hãy để cho sư ở nhà nghỉ và tiếp tục cố gắng. Các vị tỳ khưu khác nên thọ bát thay thế sư để không làm gián đoạn sự cố gắng của sư.

Ngài Acharn không nhìn vị tỳ khưu ấy khi nói như vậy, và sau khi nói xong, Ngài dẫn các đệ tử vào làng như thường lệ. Vị tỳ khưu kia tiếp tục thiền hành một mình ở nhà. Dĩ nhiên, Ngài Acharn làm như vậy nhằm giúp vị tỳ khưu đáng thương kia mà Ngài biết đang là nạn nhân của hoàn cảnh và đang tận lực tự cứu mình. Đến giờ độ thực Ngài bảo đem vật thực chia với sư và cho biết rằng sư có thể ăn ở tịnh thất hoặc đến nơi họp. Sư chọn đến ăn tại nơi họp. Khi sư đến, Ngài Acharn không nhìn sư, rồi sau đó vui vẻ nói vài lời dịu hiền và an ủi. Vị tỳ khưu đáng thương chỉ ăn được chút ít, và ăn vì lễ phép.

Hôm ấy hai vị tỳ khưu bạn, người kể lại chuyện này và một vị nữa, lấy làm ngạc nhiên thấy Ngài Acharn có thái độ bất thường chưa thừng thấy như vậy. Hai người đến gặp nạn nhân của hoàn cảnh và hỏi sư về cố gắng gì khác thường của sư mà Ngài Acharn đề cập đến. Hai vị nghĩ rằng đó là điều gì đặc biệt mà sư đã thành đạt. Vị tỳ khưu đáng thương mỉm cười yếu ớt và nói: “Không phải tôi thành tựu được gì mà Ngài Acharn làm vậy. Chắc Ngài đã thấu hiểu rõ ràng là tôi đang đau khổ sâu đậm như thế nào, và làm vậy để giúp tôi khỏi phải thêm khốn khổ.” Được hỏi điều gì làm cho sư đau khổ thì lúc ban đầu sư cảm thấy hổ thẹn mà không nói, nhưng sau cùng sư bảo phải hứa là sẽ không hé răng với Ngài Acharn mà thầy đoán chắc rằng đã biết hết rồi, biết còn nhiều hơn là chính sư, và vì lẽ ấy sư tỏ ra rất lo sợ và hổ thẹn.

Rồi sư hỏi, “Quý đạo hữu thấy có gì xảy ra ngày hôm qua khi chúng ta sửa soạn tắm ngoài vũng nước không?”

Người bạn lúng túng trả lời, “Tôi không thấy có gì bất thường ngoại trừ có vài thiếu nữ đi ngang qua.”

“Nhưng đó là điều làm cho tôi đau khổ” vị tỳ khưu đáng thương nói, “và đó là tại sao Ngài Acharn bảo tôi không nên vào làng trì bình sáng hôm nay. Ngài sợ rằng tôi có thể sụp đổ nếu thấy cô ấy lần nữa.”

“Nhưng tại sao đạo hữu sụp đổ?”

“Tại sao không?” vị tỳ khưu trả lời. “Tôi đã cảm thương nàng, dù nàng không hay biết! Giờ đây đề mục hành thiền (kammaṭṭhāna) của tôi đã biến mất tăm. Tất cả những gì tôi còn có thể thấy, nghĩ đến, và đắm đuối say mê chỉ là sắc đẹp của nàng. Tôi có cảm tưởng rằng tim tôi đã vỡ lúc mới nhìn thấy nàng và thậm chí đến bây giờ hình như vô phương cứu chữa vì dù có cố gắng thế nào tôi không thể đè nén tình cảm ấy. Các sư có cách gì giúp tôi không?”

Vị tỳ khưu bạn trả lời, “Nếu sư không thể kiểm soát tình cảm của mình trong khi ở đây, thì tốt hơn có lẽ nên dời đi, đến ở một nơi khác cách xa đây trong một thời gian. Nếu sư không dám bạch với Ngài Acharn để xin phép, tôi sẽ có thể giúp giải thích hoàn cảnh của sư với Ngài. Tôi sẽ bạch với Ngài rằng nơi đây không thích hợp với sư chút nào. Ngài sẽ sẵn sàng chấp nhận, đặc biệt bởi vì đã thấu hiểu tình trạng khó khăn của Sư. Ngài chưa nói gì đến điều này vì sợ làm cho sư quá xấu hổ.”

Ai cũng nghĩ rằng đó là phương cách tốt đẹp nhất để cứu vãn nhà sư đáng thương, và chiều hôm ấy câu chuyện được bạch lại với Ngài Acharn. Ngài cho phép nhưng có lời ngụ ý rằng “chứng bệnh” này rất khó trị, bởi vì nó là hậu quả của nghiệp quá khứ. “Nguồn gốc của nó nằm ở bên trong ta”, Ngài nói. “và nó sẽ tấn công bệnh nhân đến ngã quỵ.” Rồi Ngài không nói gì thêm, và lúc bấy giờ không ai biết rõ những gì Ngài muốn ám chỉ. Dù sao đây là vấn đề khá xấu hổ. Vị tỳ khưu đáng thương không dám đề cập đến vấn đề với Ngài Acharn, và Ngài cũng không nói gì, vì sợ làm cho sư càng khổ tâm hơn. Chính vì sư bạn đã trình với Ngài ý kiến đưa thầy đi xa để lánh nạn cũng không dám nói thẳng về điều đó. Như vậy đây là một “bí mật mở.” Mọi người đều biết nhưng không ai nhắc đến.

Ngày hôm sau, vị tỳ khưu đáng thương xin bái từ Ngài Acharn, Ngài làm thinh chấp thuận. Từ ngày ấy thầy đến ở một nơi khác khá xa, bạn bè yên trí rằng giờ đây thầy đã được an toàn.

Nhưng có ai thoát khỏi sức mạnh của nghiệp không? Về sau, mọi sự xảy ra giống như Ngài Acharn đã ngụ ý đoán trước. Không lâu sau, khi vị tỳ khưu dời đến cư ngụ ở một chỗ mới thì cô thiếu nữ người thượng tình cờ cũng về cùng một nơi. Đối với cô, đó là chuyện thông thường không có gì lạ, nhưng với vị tỳ khưu, đó là “cọng rơm đã kéo con lạc đà trở về.” Sư cùng đường, nhận thức rằng mình không còn chịu nổi nữa, quyết định quay trở về đời sống tại gia cư sỹ, và một ít lâu sau cưới cô thiếu nữ người thượng gốc Muser ấy trong làng.

Câu chuyện tình ái lãng mạn này cho ta nhiều bài học quý giá. Nếu mà nông cạn thì đây là “tình yêu từ cái nhìn đầu tiên”, nhưng một cách chính xác, nó bắt nguồn từ thời quá khứ xa xăm, chứ tình yêu mạnh mẽ như vậy không thể có từ “cái nhìn đầu tiên.” Cả hai chưa bao giờ quen biết, không hề nói chuyện với nhau mà chỉ gặp nhau một cách tình cờ. Thậm chí đến lúc cố tình dời đi chỗ xa để trốn tránh, lại “tình cờ” gặp nhau. Vị tỳ khưu đã tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài Acharn, có tác phong đúng đắn và biết tự kiểm soát. Nhưng vừa khi thoáng thấy cô gái thì mọi thứ khác đều tan biến. Rồi sư bị một tình cảm ám ảnh quả thật vô cùng nguy hiểm đối với một người như sư. Sau cùng sư bị tình ái lừa phỉnh, tàn nhẫn lường gạt và áp chế không thể cưỡng.

Câu chuyện trên đây có thể làm cho nhiều người cười, nhưng người trí tuệ thì không cười chê bởi vì chính họ cũng “cùng hội cùng thuyền.” Ta không nên khinh khi chế diễu những ô nhiễm như thế. Những cô gái người thượng thường không thích gần gũi làm quen với những vị tỳ khưu, như vậy cuộc gặp gỡ này chỉ có thể xảy diễn do nghiệp đã tạo trong quá khứ của hai người. Năng lực của nghiệp mạnh hơn mọi thứ. Chắc Ngài Acharn đã biết trường hợp này không chữa được nên không mắng vị tỳ khưu đáng thương kia, cũng không giúp thêm hay gợi ý sư nên làm gì hơn cái sư đã làm.

^^^


74. Tìm lỗi người vì lòng từ bi 


Trong khi ở Chiengmai Ngài Acharn thường dùng năng lực tha tâm thông để tóm những kẻ thích lỉnh đi chơi và trốn về nơi chốn cũ khi nghe giảng Pháp. Ngài đặc biệt dùng kỹ thuật này với những vị tỳ khưu chủ động đến để tu tập dưới sự hướng dẫn của mình. Trong những trường hợp như thế, không cần lo ngại người nghe bị chạm tự ái, bởi vì tất cả những người đến tu tập đều chỉ một lòng muốn tìm Giáo Pháp Tối Thượng. Mỗi khi bị Ngài Acharn quở rầy, dù nói thẳng, hay dù Ngài ngụ ý ám chỉ, họ đều cố gắng tự sửa mình mà không hổ thẹn về lỗi lầm hay khuyết điểm của mình. Trái lại họ cảm thấy biết ơn phong cách “tìm lỗi” tốt bụng của Ngài.

Trong trường hợp như vậy, giáo huấn của Ngài nâng cao và thâm điệu hơn, nhằm thích hợp với nhu cầu của thính giả, không gì còn giữ lại đối với tâm tìm kiếm và quyết tâm của họ vốn đã phát triển hoàn thiện. Các vị đệ tử đã tự mình từ bỏ niềm hãnh diện và danh vọng trong địa vị cao cấp, hay học thức của mình mà không dễ gì có được. Ngài có cách giải thích cho riêng mỗi người và do đó cực kỳ uyển chuyển, thích ứng đặc biệt để phù hợp với từng trường hợp cụ thể và để tấn công vào một điểm cụ thể của mỗi vị đệ tử. Tùy theo mức độ thuần thục của từng vị, Ngài nhấn mạnh đặc biệt một điểm nào cho vị nào, nhằm vào phương diện tiêu cực để ngăn ngừa những điểm bất lợi, hoặc phương diện tích cực để khuyến khích đưa đến lợi ích. Đối với mỗi thắc mắc, câu giải đáp của Ngài đi thẳng vào vấn đề và bao gồm nhiều chi tiết làm sáng tỏ mọi hoài nghi người hỏi có thể có. Gần như không ai thất vọng vì không được thỏa mãn, nhất là trong phạm vi thiền tập mà Ngài đã vững chắc một cách tinh luyện. Mỗi đoạn của Giáo Pháp mà Ngài giải thích quả thật thâm sâu và thấm thía, dù trong lãnh vực giới, định hay tuệ. Người nghe hoan hỷ ngập chìm trong Giáo Pháp của Ngài trong nhiều ngày.

^^^


75. Đối thoại trong tâm và vũ khí chiến lược 


Trong thời gian sống đơn độc giữa rừng hoang của Chiengmai (trước ngày thành tựu hoàn toàn chứng ngộ), muc tiêu duy nhất của Ngài Acharn là Giáo Pháp Tối Thượng, mà vào lúc ấy vẫn chưa thành tựu. Trong từng khoảnh khắc, tâm luôn luôn hướng về mục tiêu và mỗi hoạt động của thân đều được kiểm soát cho phù hợp với mục tiêu tối hậu ấy. Ngoại trừ lúc ngủ nghỉ, mỗi giây phút tỉnh giấc là một giây phút nỗ lực chuyên cần. Ngài hướng việc quán chiếu vào bên trong, thận trọng và tỉ mỉ theo dõi cuộc “đối thoại nghiêm chỉnh” giữa một bên là niệm và tuệ và bên kia là ô nhiễm. Đề tài của cuộc đối thoại là sự giải thoát ra khỏi đau khổ, được xem là mục tiêu cứu cánh của mọi nỗ lực. Bất kỳ kẽ hở nào mà ô nhiễm cố gắng mở ra để lọt vào trong tâm thì Ngài tập trung năng lực niệm và tuệ để đóng kín lại. Bất kỳ trò gian manh xảo quyệt nào mà ô nhiễm dùng để đánh, nhốt, hay trói Ngài, thì Ngài vận dụng khí giới có năng lực kháng cự -- niệm và tuệ -- tức khắc bẻ gẫy, xé từng mảnh, đập tan, và cà nát, cho đến khi hoàn mãn chiến thắng từng điểm một, hết điểm này sang điểm khác. Điểm nào mà ô nhiễm còn chiếm ưu thế, Ngài vận dụng năng lực của đức tin và hạnh chuyên cần, với sự hỗ trợ của niệm và tuệ, dũng mãnh tấn công, quét sạch điểm ấy. Với tâm niệm kiên cố vững chắc và tinh tấn không ngừng, Ngài cương quyết xung phong, hết cuộc tấn công này đến cuộc tấn công khác, quyết hoàn toàn phá tan những nơi ô nhiễm còn cố thủ, cho đến ngày chiến thắng quyết định cuối cùng. Vị hoàng đế thống trị tâm dưới sự đô hộ của vòng xoáy bộ ba đã bị truất phế và tất cả những ô nhiễm nhỏ còn sót lại cũng đều rơi rụng. Đó là đoạn cuối cùng của hạnh tinh tấn, bước cuối của cuộc hành trình dai dẳng, không có thời gian hạn định nhưng lúc nào cũng hướng về mục tiêu nay đã nhìn thấy được.

Sau khi đến đích và nguyện vọng đã được thành tựu viên mãn thì không còn cần thiết phải trau dồi khí giới niệm và tuệ thêm nữa. Trước kia nó được gọi đến mỗi khi cần đến chức năng của nó, nay không còn cần đến thì tự động nó co lại. Không còn trạng thái luôn phải canh chừng ô nhiễm bất chợt đột kích. Khi không còn phải kêu gọi niệm và tuệ ra tay thì hình như không có gì khác với người thường, ngoại trừ tâm lúc nào cũng chìm đắm trong trạng thái thong dong tự tại, vắng lặng thanh bình và hạnh phúc, không còn bị cảnh trạng chung quanh làm chao động mặc dù vẫn luôn luôn hay biết. Trong khi ở đơn độc một mình, mọi sự vật trong tất cả tam giới hình như đã ngưng hiện hữu, cũng giống như những ô nhiễm đã chấm dứt. Khi giúp đỡ người khác, cảm thấy cần phải có nhiều thì giờ và nhiều lời dạy hơn, bao gồm những lời cảnh báo và khuyến cáo nhằm mục đích ngăn ngừa. Đôi khi trong thời tọa thiền Ngài biết được những chuyện cụ thể của linh ảnh để Ngài có thể giải quyết một cách phù hợp.

^^^


76. Trường hợp một tỳ khưu võ sỹ 


Có một vị tỳ khưu, khi còn ngoài đời là một võ sỹ nổi tiếng. Đến lúc xuất gia, vị này muốn tu hạnh đầu đà theo truyền thống dhūtaṅga để trau dồi và phát triển tâm. Nghe danh tiếng của Ngài Acharn là vị thiền sư lỗi lạc có nhiều kinh nghiệm thực hành nên sau khi xuất gia sư liền tìm đến Ngài Acharn để thọ giáo. Tuy nhiên, vô tình ông có mang theo trong túi vào rừng sâu Chiengmai nơi Ngài Acharn ở với một số hơn mười bức ảnh chụp các võ sỹ trong nhiều thế võ khác nhau. Đến nơi, ông đảnh lễ Ngài Acharn, trình bày ý nguyện, và được Ngài thâu nhận.

Đêm ấy, trong khi ngồi thiền chắc Ngài đã chú tâm theo dõi (khả năng và khuynh hướng tâm tính) vị thiền sinh mới này vì đến sáng, khi tất cả chư vị tỳ khưu tụ họp tại hội trường thì Ngài nói với vị tỳ khưu võ sỹ: “Mục đích chính yếu của sư là đi tìm Giáo Pháp. Tư cách và hành động của sư cũng tốt đẹp, xứng đáng để được khen ngợi, nhưng tại sao trong đêm qua thầy thấy sư trông quá đỗi hung tợn như vậy? Trông như sư muốn đến gặp thầy, đứng cách xa thầy khoảng một thước, biểu diễn một bài khá đẹp về các thế võ một lúc. Rồi sư lùi lại một chút, lần này thì đấm đá một mình. Có phải trước khi xuất gia sư là võ sỹ không?”

Tất cả hội trường đều ngạc nhiên trước câu hỏi của Ngài Acharn. Tất cả đều im lặng và chăm chăm nhìn vị tỳ khưu mới đến. Vị này kinh ngạc sợ hãi, mặt mày tái xanh.

“Sư tiếp tục mang theo nghề cũ như thế ấy để làm gì?” Ngài Acharn hỏi. “Nhưng còn tốt là Sư không đánh võ với thầy!” Nói đến đây Ngài Acharn ngưng lại vì đã đến giờ đi trì bình.

Ngày hôm ấy trong giờ giáo lý vào buổi chiều, Ngài cũng không đề cập đến vấn đề này. Nhưng trong đêm chắc Ngài có quan sát lại vị tỳ khưu võ sỹ nữa, bởi vì sáng hôm sau Ngài lại hỏi nữa tại sao vị này vẫn lặp lại những thế võ và tập luyện suốt đêm.

Ngài Acharn hỏi: “Sư đến đây với mục đích gì? Nếu sư không nói rõ thầy e không thể giữ sư ở lại đây, vì trong hai đêm liền sư không làm gì khác hơn là khoe tài múa võ với thầy.”

Vị tỳ khưu võ sỹ run sợ nói không ra lời. Vào lúc bấy giờ có một vị tỳ khưu trong hội trường, thấy hoàn cảnh của vị tỳ khưu mới đến như vậy thì xin Ngài Acharn cho phép mình khuyên giải anh ta.

“Tốt hơn là sư đệ nên trình bày tất cả sự việc cho Ngài Acharn rõ. Chắc chắn Ngài không có ý gì muốn làm hại đệ đâu. Tấ cả chúng tôi đều đã có làm những điều sai quấy và đã có bị Ngài quở rầy lúc nọ lúc kia, bởi vì chúng ta vẫn còn là phàm nhân. Chúng ta là đệ tử của Ngài và chúng ta ngưỡng nhìn lên Ngài như Sư Phụ, như cha. Lẽ dĩ nhiên là Ngài phải chỉ dạy cho chúng ta thấy những lỗi lầm của mình và mắng chúng ta. Tất cả chúng tôi đều đã bị Ngài mắng rất nhiều, còn nặng hơn thế này nhiều. Có vài người đã bị đuổi ra khỏi thiền viện này. Nhưng chúng tôi vẫn còn ở lại đây, vì chúng tôi đã nhận ra lỗi và cố gắng sửa mình, Ngài không bao giờ nhắc lại hay nói gì đến những việc ấy. Bây giờ sư đệ hãy thận trọng lưu tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài và không phải sợ hãi quá. Hãy nói cho Ngài nghe sự thật, tất cả những gì đệ biết về quá khứ của mình.”

Đến đây Ngài Acharn hỏi vị tỳ khưu võ sỹ một lần nữa: “Bây giờ con nói gì? Thầy không muốn chỉ trích con một cách vô lý, nhưng hình ảnh của con đã lọt vào nhãn quan của thầy hầu như suốt đêm. Hoặc có gì sai lầm nơi con, hoặc nhãn quan của thầy đã chơi trò lừa đảo phỉnh gạt thầy. Vì lẽ ấy thầy bảo con nói sự thật. Nếu con không có làm điều gì sai lầm thì ắt là nhãn quan của thầy có gì không đúng sự thật và như vậy thầy nên tức khắc ngưng dạy.”

Vị tỳ khưu mà lúc nãy cố gắng giúp tỳ khưu võ sỹ cũng khuyến khích vị này trả lời. Với một giọng run run vị tỳ khưu võ sỹ nói: “Trước kia con là một võ sỹ.” Và không thể nói gì thêm nữa. Ngài Acharn hỏi thêm: “Nhưng giờ đây con đã là một tỳ khưu! Làm sao cùng một lúc con có thể vừa là tỳ khưu vừa là võ sỹ? Hay con đã múa võ trên đường để kiếm tiền đến đây?”

Vị tỳ khưu võ sỹ đáng thương giờ đây quá đỗi kinh sợ, không thể nói gì hơn là “dạ, dạ, dạ.” Sau cuộc đàm thoại vắn tắt này, tất cả những gì được biết chỉ là trước kia vị sư mới đến là một võ sỹ nhưng rồi sau đó hoàn toàn bỏ nghề. Thấy vị này quá kinh sợ, Ngài Acharn đổi đề tài, nói rằng đã đến giờ đi trì bình, và Ngài bảo một vị tỳ khưu khác đợi lúc nào thuận tiện thăm hỏi thêm vị “võ sỹ.”

Sau giờ thọ thực, vị tỳ khưu đã được lệnh thăm hỏi vị tỳ khưu võ sỹ đến bạch với Ngài Acharn rằng vị này là một võ sỹ lừng danh trong trại Suan Kularb. Về sau, ông mệt mỏi chán chê đời sống tại gia cư sỹ và sau ngày xuất gia ông ra đi tìm đến Ngài Acharn. Giờ đây, mọi việc hình như đã được an bài tốt đẹp vì Ngài Acharn không đề cập gì đến câu chuyện sau khi ban truyền vài lời giáo huấn. Nhưng sáng hôm sau, chắc trong đêm Ngài Acharn lại theo dõi nghiên cứu thêm vị tỳ khưu võ sỹ, nên Ngài lại nói với ông rằng chắc còn dấu kín điều gì. Nếu chỉ có vấn đề ông là một võ sỹ trước khi xuất gia thì hình ảnh Ngài nhìn được đáng lẽ phải không biểu lộ gì nữa. Như vậy, vị này phải thận trọng xem xét vấn đề. Sau đó Ngài Acharn không nói gì thêm.

Rồi vị tỳ khưu trước kia được Ngài Acharn bảo giúp vị sư, đi đến nơi gặp sư và nói riêng với sư rằng chắc là vẫn còn điều gì không ổn nữa. Sau khi bàn thảo, vị sư “võ sỹ” đưa cho sư xem hơn mười bức ảnh về nhiều thế võ khác nhau mà mình mang theo. Thấy hình, vị sư giúp đỡ nhận ra chắc đó là nguyên nhân của vấn đề. Sư khuyên vị sư đệ nên đốt tất cả những bức ảnh ấy, và từ đó về sau, vấn đề chấm dứt.

Vị tỳ khưu võ sỹ có phẩm hạnh tốt và biết nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật, và sau đó có cuộc sống thanh bình an lạc và hạnh phúc. Ngài Acharn cũng có lòng từ bi đối với vị này và không bao giờ đả động đến chuyện này nữa. Về sau, khi được vị sư giúp đỡ nhắc lại chuyện này, vị tỳ khưu võ sỹ nói rằng lúc bấy giờ sư kinh sợ điếng hồn, cảm thấy như mình sắp chết rồi. Sư biết mình lảm nhảm cà lăm những câu trả lời giống như người mất hồn, như người hoàn toàn không thể tự kiểm soát.

“Nếu không có sư huynh giúp đỡ, tôi đã phát điên vì quá sợ hãi, nhưng Ngài Acharn chắc biết vậy nên đột nhiên thay đổi câu chuyện và không để ý đến tôi nữa.”

Câu chuyện trên là một ví dụ cho thấy Ngài Acharn đã sử dụng những gì Ngài thấy trong lúc ngồi thiền, thêm vào khả năng đặc biệt của Ngài đọc tâm người khác, để dạy dỗ, lèo lái người khác.

^^^


77. Giải Thoát – trạng thái vượt ra ngoài không gian và thời gian 


Nhiều việc phi thường và ngoạn mục đã xảy đến Ngài Acharn, vừa có tính chất huyền bí vừa có tầm mức xa rộng. Điều này đặc biệt đúng trong khi Ngài sống một mình. Càng ấn tượng hơn nữa là kiến thức đặc biệt và không ngờ tới được ấy – có thể gọi là trực giác chăng – thỉnh thoảng xảy đến với Ngài trong khi tọa thiền, còn lại phát sanh tới Ngài trong trạng thái bình thường khi thức tỉnh. Quả thật phi thường, một cái tâm đang mê muội và tối tăm, không thấy, không biết gì ở quanh mình bỗng nhiên biết tất cả những gì xảy diễn. Tất cả những điều ấy đã luôn luôn hiện hữu, nhưng hình như cái tâm mới phát giác lần đầu tiên, thấy hình như nó mới vừa hiện ra. Chỉ khi tâm nhập vào trạng thái bất lay chuyển của thiền những điều ấy ngưng chen vào tâm thức.

Trong trạng thái cao siêu huyền diệu ấy, tâm ở với Giáo Pháp và Giáo Pháp ở với tâm, tâm là Giáo Pháp và Giáo Pháp là tâm. Đó là trạng thái nơi (hay ta có thể nói là khi) cả Giáo Pháp và tâm đồng hóa thành một (ekibhāva), không còn nhị nguyên, không còn sự giả định hay định nghĩa của thế gian, không còn thời gian, không gian, hay ngũ uẩn, thậm chí đến hạnh phúc và đau khổ theo ý nghĩa được hiểu trong thế gian cũng không còn. Giờ phút nào mà tâm không xuất ra khỏi trạng thái này thì những đặc tính vô thường, liên tiếp biến chuyển và vô ngã, không thể chen chân vào để quấy rầy, không kể đó là hàng ngày, hàng tháng, hàng năm hàng thế kỷ hay thiên niên kỷ.

Trạng thái này là sự dập tắt hoàn toàn thế gian phàm tục trong ý nghĩa đã được hàm xúc ở phần trên. Khi những gì phàm tục, như những thành phần của tâm trong lúc bấy giờ tan rã, tâm đã tới được trạng thái Chấm Dứt Đau Khổ không còn nhớ gì và trở thành chính trạng thái ấy (ekidhamma – là một). Theo lý thuyết, điều này chỉ ra cái có thể xảy ra. Nhưng trong thực tế, trạng thái cao diệu này dùng để tạm thời nghỉ ngơi và tĩnh dưỡng tâm trí, không cần phải nhập vào trạng thái ấy cả năm, hay cả thế kỷ. Cũng giống như thời gian một giấc ngủ đối với người thường, trong lúc chìm đắm trong giấc ngủ thì ta không còn hay biết gì đền sự việc bên ngoài. Đến khi tỉnh giấc, tâm mới hay biết. Tuy nhiên, dù nhập tâm vào một trạng thái an tĩnh của một giấc ngủ bình thường hay vào trạng thái chấm dứt đau khổ, vẫn còn nằm trong phạm vi của thế giới trần tục, trong khi (trong trường hợp này, tâm của) Ngài Acharn đã vượt ra khỏi cảnh giới thế gian ấy.

Khi tâm trở nên tuyệt đối trong sạch thì không có gì trên thế gian phàm tục này có thể quấy rầy, phiền nhiễu. Tâm lúc nào cũng ở trong trạng thái giải thoát, trong khả năng của nó như tâm vô thời gian. Nó vượt ra ngoài mọi khái niệm và mô tả của ngôn ngữ trần gian và vượt qua mọi khả năng tưởng tượng của tâm phàm tục thông thường. Trong trạng thái an chỉ định mà không gì của thế gian phàm tục có thể chen vào, không thể có sự kích thích hay liên hệ dính mắc, cũng không có phản ứng. Chỉ đến khi xuất ra từng phần để nhập vào tầng thiền cận định thì mới có thể có sự phản ứng hay sự hay biết (trong tầng thiền cận định ấy).

Đối với Ngài Acharn, tâm Ngài luôn luôn mở rộng ở tầng cận định để tiếp nhận những diễn biến bên ngoài, mà sự khác biệt chỉ là mức độ tế nhị hay hiểu biết tận tường. Khi cần phải hay biết tường tận và rõ ràng với nhiều chi tiết thì tầng cận định có nhiều công hiệu hơn. Cũng ở tầng cận định để dùng nhãn thông hay nhĩ thông, khả năng nghe được tiếng người hay tiếng thú (từ xa), hoặc nữa nghe được tiếng nói của chúng sanh vô hình trong những cảnh giới khác nhau. Một thí dụ điển hình là trường hợp sau đây xảy đến chính Ngài Acharn.

^^^


78. Những con cọp trá hình 


Vào một lúc nọ, khi thênh thang bất định trong rừng, Ngài đến một nơi rất sâu trong rừng đến độ những người dân thượng du trong làng chưa bao giờ thấy một tu sỹ hạnh đầu đà. Chỉ có vài người đã có ra thành phố, và đi lâu lắm mới gặp được một người biết chút đỉnh về một vị tỳ khưu.

Lúc ấy Ngài Acharn cùng đi với một vị tỳ khưu khác. Các Ngài chọn bóng một lùm cây to lớn cách làng khoảng hai cây số, để làm nơi an trú. Sáng sớm vào làng trì bình thì những người thượng trong làng hỏi mấy ông muốn gì. Khi các Ngài trả lời là các Ngài xin ăn thì người làng hỏi muốn thức ăn gì. Các Ngài nói là muốn cơm, nhưng người làng cũng chưa biết là cơm nấu rồi hay gạo sống. Các Ngài nói muốn cơm nấu rồi và người làng sớt cho một ít cơm, ngoài ra không có gì nữa. Ngài Acharn và vị tỳ khưu đồng hành sống như thế trong nhiều ngày. Dân chúng trong làng không tỏ ý gì tôn trọng hay tin cậy các Ngài.

Một đêm nọ, người trưởng làng đánh mõ kêu dân tập họp. Ông nói rằng mới đây có hai con cọp trá hình người đến ở một nơi cách đây không xa. Ông nói ông không biết đó là giống cọp gì nhưng chúng trông có vẻ rất đáng nghi. Như vậy phụ nữ và trẻ con không được đến gần nơi đó, và đàn ông đi tới đó thì phải trang bị đầy đủ dụng cụ hay khí giới và thậm chí chỉ được đi chung với một vài người khác. Rồi ông nói tiếp, phải rất cẩn thận, nếu không sẽ bị hai con cọp trá hình người này ăn thịt.

Trong khi vị trưởng làng cảnh báo dân làng như vậy thì Ngài Acharn đang ngồi thiền và (với năng lực của nhĩ thông) đã nghe hết những gì ông nói. Ngài rất đỗi ngạc nhiên trước những lời lẽ lạ lùng, cáo buộc Ngài và vị tỳ khưu đồng hành. Ngài rất ngạc nhiên về lời buộc tội không thể tưởng tượng này, và Ngài thấy thương họ vô cùng, biết rằng bao nhiêu người trong làng sẽ tin lời vị trưởng làng. Tin như vậy là tạo bất thiện nghiệp quan trọng vì (nếu họ không thay đổi niềm tin ấy) sau khi chết họ sẽ tái sanh vào cảnh giới của loài cọp.

Ngày hôm sau, Ngài Acharn nói với vị tỳ khưu bạn rằng cả hai chúng ta bị cáo buộc là cọp trá hình người để ăn thịt dân làng. “Nếu giờ đây chúng ta rời khỏi nơi này”, Ngài Acharn nói, “sau khi chết họ sẽ tái sanh vào cảnh giới loài cọp. Đây là trọng nghiệp mà họ đã tạo, và để giúp họ, ta nên lưu lại thêm một ít lâu, mặc dù ở đây còn phải chịu khổ nhọc và thiếu thốn vì không được hộ trì.”

Sau đó, có những nhóm người từ làng thỉnh thoảng lén đến rình mò quan sát Ngài Acharn và vị tỳ khưu bạn. Họ đến từng nhóm ba hoặc bốn người, vác theo những dụng cụ để dùng làm khí giới. Họ đứng trong lùm bụi hay gần đường kinh hành, rình Ngài Acharn và vị tỳ khưu kia, và nhìn quanh một cách ngờ vực. Họ không bao giờ nói một tiếng. Họ chỉ trở về làng để rồi trở lại ngày hôm sau tiếp tục rình.

Họ liên tục quan sát hành vi và thái độ của hai vị Acharn trong một thời gian khá lâu mà chưa thấy gì chắc chắn. Nhưng trong thời gian ấy họ không bao giờ quan tâm đến nhu cầu của những “con cọp trá hình” của họ, không bao giờ tìm xem những “con cọp trá hình” ấy thiếu thốn như thế nào vì thái độ lơ là của họ. Dân trong làng hình như không màng để ý xem hai người này có thức ăn đủ mỗi ngày không, hay sống dưới bóng cây như vậy có đủ tiện nghi không. Họ chỉ cho cơm, không gì khác, và số cơm mà họ cho, dù pha trộn trong nước cũng không đủ cho hai người. Còn nước uống thì hai vị tỳ khưu phải đi xuống chân núi, đến suối múc về sau khi tắm rửa và giặt giũ. Chỗ ở là dưới gốc cây, tàng lá vừa đủ che mưa, đỡ nắng. Bởi vì nơi này không có hang động nên các Ngài không thể có chỗ ẩn náu tốt hơn.

Đôi khi trời mưa lớn. Các Ngài phải đi nhặt những cành lá cây khô đem về làm mái che đỡ phía trên đầu. Trong khi mưa các Ngài phải chịu lạnh, run rẩy ngồi khoanh trong cái “klod”, bỏ mùng xuống. Tuy nhiên, đôi khi gió lớn, giông to từ trên núi thổi lùa xuống bay tốc cả mùng, có khi bay luôn cả cái klod, để hai vị ngồi trơ trọi lạnh rung như lá trên cây. Tất cả các món “tứ vật dụng” tung bay tán loạn, ngập trong mưa. Nếu ban ngày thì các Ngài còn có thể tìm lại tứ vật dụng rồi vội vã tìm một nơi trú ẩn khác, nhưng trong đêm tối thì tình trạng quả thật bi đát. Trong cảnh tối đen ban đêm, mưa ào xuống như nước đổ kèm gió rít, sấm sét chói tai và tất cả chung quanh các Ngài tiếng của cành gẫy đập xuống đất. Vào những lúc như thế, cuộc sống đã được phơi bày trơ trọi phó thác cho thiên nhiên, từ mọi phía.

Đó là tình thế mà Ngài Acharn và vị tỳ khưu bạn phải đối phó trong tinh thần hy sinh. Đó là hoàn cảnh hiểm nguy mà hai Ngài tự ý đặt mình vào cho đến khi thái độ của dân làng lắng dịu và họ bình tâm tĩnh trí tìm hiểu sự thật.

Tuy nhiên, mặc dù có những điều bất tiện và tình trạng thiếu thốn ấy, đây là nơi thích hợp để hành thiền. Không còn gánh nặng nào khác phải mang trong lòng. Khi đêm về khuya, thường có những tiếng cọp hòa tấu gầm thét quanh quẩn trong vùng. Đó là những con cọp to lớn, hung dữ, và mặc dù tiếng kêu nghe hình như gần, không bao giờ thấy nó bén mảng lại gần nơi hai vị tỳ khưu lưu trú. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có một con lén đến, có lẽ để xem có mồi không, nhưng khi thấy người trong klod nhúc nhích hay ngồi dậy thì thét lên một tiếng lớn và nhảy đi, không bao giờ thấy trở lại.

Còn những người dân trong làng thì vẫn còn rất tò mò. Chiều nào cũng đến từng nhóm ba bốn người để quan sát nhưng không bao giờ nói gì, mà Ngài cũng không nói gì với họ. Đôi khi họ thì thầm nói nhỏ với nhau khi theo dõi Ngài, viển vông một chút là Ngài có thể thấy hay đọc được suy nghĩ và tình cảm của họ mà họ tin chắc rằng không ai biết được. Trong lúc ấy Ngài Acharn cũng quan sát họ và còn biết nhiều điều hơn! Ngài biết rằng họ liên tục tìm cách bắt lỗi Ngài và vị tỳ khưu bạn. Biết như vậy Ngài càng thương hại cho họ bị ông trưởng làng và vài người khác dẫn dắt sai lầm mà không biết rằng kết quả rất là tai hại.

Trong nhiều tháng Ngài Acharn và vị tỳ khưu bạn ở lại đó, và trong nhiều tháng dân trong làng không từ bỏ ý định tìm lỗi hai Ngài. Dù sao, ý định kiên cố ấy cũng đáng được khen ngợi, nhưng may thay (dĩ nhiên là may cho họ), họ không cố gắng đuổi hai Ngài đi. Sau thời gian quan sát và chờ đợi lâu dài, chính họ cũng ngạc nhiên rằng mặc dù cố ý moi móc bắt lỗi, họ không tìm ra điều nào sai quấy của hai Ngài.

Một đêm nọ, trong khi ngồi thiền, do năng lực thần thông, Ngài Acharn nghe – đúng hơn là Ngài biết – vị trưởng làng hỏi nhóm người có phận sự theo dõi quan sát Ngài có tìm ra điều gì sai quấy của hai Ngài không. Tất cả đều đồng thanh báo cáo rằng từ bấy lâu nay họ không tìm ra bất luận gì sai quấy nơi “hai con cọp” ấy. Và họ thêm rằng tâm nghi ngờ của họ có thể gây tai hại nhiều hơn là tạo nên điều gì tốt đẹp. Khi vị trưởng làng hỏi tại sao vậy thì họ trả lời rằng hai vị tỳ khưu này không bao giờ làm gì đáng nghi.

“Mỗi khi chúng tôi đến đó”, họ nói, “thì thấy cả hai người ngồi yên nhắm mắt hay đi tới đi lui mà không nhìn quanh bên này hay bên kia. Nếu là cọp trá hình để ăn thịt ta thì chắc chắn sẽ không làm như vậy. Chúng tôi đã theo dõi và quan sát tỉ mỉ tận tường nhưng không thấy có điểm nào khả nghi. Nếu ta tiếp tục nghĩ về họ và nghi kỵ như vậy chúng tôi sợ sẽ có hại cho mình. Tốt hơn nên nói chuyện với họ để ta có thể hiểu biết về họ nhiều hơn.”

Lời đề nghị này được nhiều người hưởng ứng, nói rằng họ đã có ra thành thị, có gặp vài vị tỳ khưu và nghĩ rằng hai vị này cũng tốt và cũng đáng tin cậy như vậy. Họ nói họ rất cảm kích với cách cư xử của những vị tỳ khưu hơn là thấy có gì sai lầm. Sau cuộc họp, mọi người đồng ý nên đến gặp Ngài Acharn và hỏi Ngài tại sao ngồi im lặng để làm gì, và trong lúc đi tới đi lui muốn tìm cái gì. Hay biết được như vậy Ngài Acharn nói với vị tỳ khưu bạn rằng dân làng sắp đến để gặp các Ngài. Một buổi chiều, một số dân làng đến y như lời Ngài. Một trong những người này hỏi tại sao ngồi im và trong khi đi tới đi lui Ngài tìm gì.

“Buddho của sư đã mất” Ngài Acharn nói, “Sư ngồi và đi để tìm buddho.”

“Buddho là cái gì?” những người này hỏi. “ Chúng tôi có thể giúp Sư tìm ra không?”

“Được, tất cả mọi người đều có thể” Ngài Acharn đáp. “Buddho là ngọc báu quý giá nhất trong tất cả tam giới. Buddho là hiểu biết tất cả. Nếu quý vị có thể tìm ra buddho thì tốt lắm, bởi vì như vậy chúng ta sẽ tìm ra buddho sớm hơn.”

“Sư đã làm mất buddho từ bao lâu rồi?”

“Cũng không lâu lắm, với sự giúp đỡ của quý vị chúng ta sẽ tìm lại được sớm hơn nhiều.”

“Ngọc báu vô giá buddho to thế nào?” dân làng hỏi.

“Không lớn lắm mà cũng không nhỏ lắm,” Ngài trả lời. “Cỡ phù hợp cho cả quý vị và sư. Người nào tìm được buddho là người cao quý nhất trên thế gian, bởi vì người ấy sẽ thấy tất cả mọi việc.”

“Người ấy có thể thấy thiên đàng và địa ngục không?”

“Chắc chắn là thấy, nếu người ấy biết cách tìm buddho. Nếu không phải vậy, làm sao chúng ta có thể nói buddho là vô giá và cao thượng nhất?”

“Có thể nào chúng ta thấy được con cái, chồng hay vợ của chúng ta đã mất rồi không?”

“Dĩ nhiên,” Ngài trả lời, “Ta có thể thấy tất cả mọi sự vật và tất cả mọi người khi tìm được buddho.”

“Buddho có sáng chói không?”

“Sáng, buddho rất sáng, còn sáng hơn cả trăm hay cả ngàn mặt trời, bởi vì mặt trời không thể giúp ta thấy thiên đàng và địa ngục, nhưng buddho có thể.”

“Đàn bà và trẻ con có thể giúp Sư tìm buddho không?”

“Được, ai cũng có thể.”

“Buddho quý giá và cao thượng như thế nào? Có thể bảo trợ chúng ta chống ma hay yêu quái không?”

“Buddho quý giá và cao thượng trên rất nhiều phương diện, nhiều không kể xiết. Những chúng sanh trong tam giới – dục giới, sắc giới, vô sắc giới – đều phải quỳ lạy buddho. Không gì cao quý hơn buddho. Ma và quỷ rất sợ buddho. Chúng cũng sợ người bắt đầu tìm buddho, mặc dù người ấy chưa tìm ra.”

“Ngọc báu buddho màu gì?”

“Trong ánh sáng của buddho có rất nhiều màu sắc khác nhau không thể đếm được. Buddho là kho tàng quý báu nhất của Đức Phật. Buddho là nguồn gốc của mọi kiến thức và mọi tâm trí sáng suốt thông minh. Buddho không phải vật chất. Đức Phật đã cho chúng ta từ lâu nhưng đến bây giờ chúng ta chưa tìm ra. Nhưng buddho ở đâu thì không quan trọng. Nếu quý vị thật lòng muốn tìm buddho thì hãy ngồi xuống hay đi tới đi lui niệm thầm buddho, buddho, buddho. Trong khi ấy không nghĩ nhớ gì khác. Cứ đặt tâm trên buddho bên trong mình. Nếu làm như thế quý vị sẽ tìm được buddho.”

“Nhưng chúng tôi phải ngồi và đi tới đi lui trong bao lâu để tìm ra buddho?”

“Lúc sơ khởi, chừng mười lăm hoặc hai mươi phút là đủ. Buddho không cần chúng ta phải vội vã gấp rút vì như thế chúng ta sẽ mệt và không thể tìm ra buddho. Bao nhiêu đó đủ rồi cho ngày hôm nay.”

Sau khi nghe những lời dạy khéo léo ấy dân làng trở về nhà. Họ không nói gì với Ngài Acharn, chỉ đứng dậy ra đi. Đối với dân miền thượng du không chào hỏi. Khi họ về đến làng có những người khác săn đón và hết lòng muốn biết cuộc gặp gỡ hai vị tỳ khưu như thế nào. Họ lặp lại những lời dạy của Ngài Acharn và nói rằng hai vị này quả thật không phải là cọp trá hình như chúng mình nghi ngờ. Nghe qua câu chuyện người trong làng rất thích lời dạy của Ngài Acharn và không bao lâu cả làng, từ vị trưởng làng đến đàn bà và trẻ con đều biết niệm buddho.

Giáo huấn của Ngài Acharn đem lại nhiều thành quả tốt đẹp phi thường và sớm sủa không ngờ. Nhờ hành theo phương pháp tinh xảo của Ngài Acharn, ít lâu sau có một người lớn tuổi trong làng tìm được buddho. Vị ấy nói rằng sau khi tin tưởng làm đúng theo phương pháp đó thì tâm trở nên thanh bình an lạc. Theo lời ông, bốn hay năm ngày trước khi thâu đạt thành quả tốt đẹp ấy, ông nằm mộng thấy Ngài Acharn đi đến ông, tay cầm một ngọn nến to lớn đang cháy sáng tỏ và đặt lên trên đầu mình. Trong cơn mộng ông lấy làm rất vui sướng nhận ra mình có thể tạo nên một ánh sáng đủ mạnh để trong đêm tối có thể thấy xa nhiều thước. Sau khi đạt được sự thanh bình an lạc đó, ông đến gặp Ngài Acharn, tường thuật điềm mộng và sự thành tựu phi thường của ông. Ngài Acharn dạy thêm pháp hành tiến bộ hơn và khuyên ông nên tận lực chuyên cần. Ông thận trọng hành theo lời dạy và sớm thành đạt mức tiến bộ cao hơn, với khả năng hiểu biết cái tâm của người khác còn ô nhiễm hay đã trong sạch. Sau đó ông đến gặp Ngài Acharn, và – theo thói quen của người miền thượng – nói thành thật rằng ông quan sát tâm của Ngài Acharn và của vị tỳ khưu bạn, và hiểu biết các Ngài rất nhiều.

“Ông thấy tâm của sư thế nào?” Ngài Acharn vui vẻ đùa hỏi, “Có xấu lắm không?”

“Cái gì?” ông cụ trả lời ngay, “tâm của Ngài hoàn toàn trong sạch, không thấy có điểm bợn nhơ nào. Nó đắm chìm trong một ánh sáng rạng tỏ tuyệt vời bên trong. Ngài cao thượng nhất trên thế gian. Tôi chưa từng thấy cái gì như vậy. Ngài đến ở đây rất lâu! Tại sao không dạy chúng tôi từ ngày đầu?”

“Nhưng làm sao sư có thể dạy được?” Ngài trả lời, “Không có ai đến đây hỏi gì, sư làm sao dạy?”

“Chúng tôi không biết Ngài là bậc thánh thiện, nếu biết thì đã tới từ lâu. Đến bây giờ thì mới biết Ngài là bậc trí tuệ cao siêu. Khi chúng tôi hỏi tại sao Sư ngồi im lặng, và Sư tìm kiếm gì trong lúc đi tới đi lui, thì Sư nói, Sư làm mất buddho và nhờ chúng tôi phụ tìm giùm buddho. Khi hỏi buddho là gì thì Sư nói buddho là kim cương ngọc báu sáng tỏ lạ thường. Trong thực tế, tâm của Sư đã là buddho, nhưng Sư muốn làm cho tâm của chúng tôi cũng sáng tỏ như vậy. Giờ đây chúng tôi đã biết Sư là bậc thánh thiện và bậc trí tuệ cao minh. Sư không muốn chúng tôi giúp Sư tìm buddho cho Sư. Sư muốn giúp chúng tôi tìm buddho cho chính chúng tôi!”

Tin có người chứng ngộ Giáo Pháp sớm lan truyền cùng khắp làng. Mọi người thích thú niệm buddho và do đó họ thích thú nghe lời dạy của Ngài Acharn. Từ đó về sau câu chuyện “hai con cọp trá hình người” hoàn toàn đi vào dĩ vãng.

Mỗi buổi sáng người lớn tuổi ấy đến nơi cư ngụ của hai vị tỳ khưu, đi theo và mang bát cho Ngài Acharn, và nhân cơ hội cũng học thêm Giáo Pháp. Thậm chí nếu có bận việc gì ở nhà cũng nhờ người báo cho Ngài. Có nhiều người khác, đàn ông và đàn bà, cũng tiến bộ trong pháp hành thiền, nhưng vị chứng ngộ Giáo Pháp đầu tiên này là khá nhất.

Giờ đây, khi dân trong làng có thái độ tinh thần đúng đắn đối với Ngài Acharn, mọi sự việc tự nhiên thay đổi. Trước kia họ không bao giờ để ý tìm hiểu hai vị tỳ khưu có ăn hay ngủ không, còn sống hay đã chết. Đến khi nhận biết hai vị là ai rồi thì họ rất nhiệt tâm chăm lo đến tình trạng an lạc và tiện nghi của các Ngài. Dù không có một lời yêu cầu của Ngài Acharn, họ lo cất chòi, dọn nơi ăn chốn ở và đường kinh hành gọn gàng. Họ cũng trìu mến than phiền làm sao Ngài có thể cứ đi tới đi lui trên con đường mòn đầy chông gai và những bụi cỏ rậm rạp này.

“Sư có nói với chúng tôi rằng đây là đường mòn để Sư đi tìm buddho” họ nói, “và Sư nói rằng ngồi và đi tới đi lui để tìm buddho! Sư quả thật là lạ và khác biệt với những người khác. Trên thế gian Sư là hạng cao cả tối thượng mà không bao giờ nhắc đến điều này. Chúng tôi rất mến mộ Sư. Giường ngủ của Sư chỉ là những lớp lá khô mà bây giờ đã mục nát. Làm thế nào Sư có thể sống như vậy tháng này qua tháng kia, nhiều tháng như vậy. Giống như chỗ ngủ của heo. Điều này làm tim chúng tôi tan vỡ. Tất cả chúng tôi quả thật là rất ngu dốt. Chúng tôi đui mù quá! Vài người lại còn cáo buộc quý Sư là những con cọp trá hình, nhưng đến nay thì họ đã đổi ý. Chúng tôi đã nói tất cả về Sư cho họ biết.”

^^^


79. Cuộc chia tay bi tráng của Ngài 


Lòng tôn sùng và kính trọng của người thượng rất mạnh mẽ và thành thật, và càng quan trọng hơn, là tuyệt đối. Họ có thể hy sinh mạng sống cho người mà họ tôn kính. Bất luận gì mà Ngài Acharn dạy sau đó được kính cẩn lắng nghe và nhiệt thành thực hành. Ngài dạy họ những bài học về thiền, cao hơn là chỉ niệm buddho, và họ dần dần tiến bộ thêm. Vì lợi ích của họ, Ngài Acharn và vị tỳ khưu bạn năm ấy an cư kiết hạ với họ.

Hai vị tỳ khưu đến làng vào đầu tháng hai dương lịch và rời nơi ấy vào tháng tư năm sau, sống với người trong làng hơn một năm. Sự ra đi của hai Ngài thật là bi tráng – vừa bi ai buồn thảm, vừa cương quyết hùng tráng, vì họ không muốn các Ngài đi. Họ nói, Ngài có viên tịch tại đây thì họ sẽ lấy làm vinh hạnh lo tang lễ. Họ hiến dâng tất cả cho Ngài. Điều này cho thấy rằng họ cảm nhận những lỗi lầm và thành thật tự sửa mình. Họ hiểu biết rằng Ngài thật sự là bậc thánh thiện và cúi xin Ngài tha thứ những lỗi lầm đã làm đến Ngài.

Trước khi rời nơi này Ngài Acharn nói với vị tỳ khưu bạn rằng giờ đây dân trong làng đã tránh được bất thiện nghiệp, thì hai Ngài có thể tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng không thể ra đi dễ dàng vì một khi biết các Ngài muốn rời chỗ ở thì cả làng tụ họp đông đảo, khóc lóc thảm sầu giống như có người chết, khẩn khoản thỉnh cầu các Ngài ở lại. Lời than vãn nghe rất cảm động và lòng thành thật khẩn cầu của họ rất dễ động lòng. Ngài Acharn cố gắng khuyên nhủ và giải thích cho họ biết tại sao các Ngài phải ra đi và tại sao họ không nên quỳ lụy đầu hàng những cảm xúc buồn thảm của mình, như vậy không tốt cho họ.

Khi thấy họ có vẻ dịu bớt đôi chút, Ngài gom góp các vật dụng cần thiết và bắt đầu rời nơi cư ngụ tiện lợi và an nhàn này. Vào lúc ấy xảy ra một diễn biến bất ngờ. Một nhóm đông trẻ con và người lớn kéo đến vây chật ních quanh Ngài, vài người lệ tuôn đầy mặt, khóc lóc ôm chân, và cố giữ không để Ngài đi. Người khác níu y, và cũng có vài người ráng sức chụp lấy và kéo lui cái klod, cái bát hay ấm nước trên tay người có phận sự tiễn đưa Ngài một đoạn. Khung cảnh giống như trẻ con khóc lóc không để cho cha mẹ đi đâu xa. Ngài Acharn phải dừng lại đôi ba lần để khuyên nhủ vỗ về, giúp họ bớt cơn sầu và giải thích, an ủi họ. Phải ở lại khá lâu trước khi có thể lên đường, thậm chí đến lúc đi được vài thước thì có người chạy theo, đi bên cạnh, khóc than kể lể, khẩn cầu Ngài ở lại. Tất cả mọi người khóc lóc, ôm chặt chân và y Ngài, còn chặt hơn trước. Lần này Ngài phải mất nhiều giờ để an ủi và giải thích, vì cảnh tượng trở nên hỗn loạn với tiếng kêu la ai oán, rên rỉ than van, tiếng khóc nức nở và la thét của trẻ con cũng như người đứng tuổi.

”Xin Sư trở lại với chúng con”, họ nức nở kêu la than khóc. “Xin Sư chớ ở xa lâu ngày. Chúng con nhớ Sư lắm. Tim con đã tan vỡ.” Đó là những lời kêu than đáng thương của dân làng, vừa khóc vừa khẩn cầu Ngài Acharn sớm trở lại. Đàn ông, đàn bà và trẻ con ta thán kêu van xin được thương xót vì sợ Ngài đi luôn không bao giờ trở lại.

Ngài đến làng giữa hoàn cảnh ngờ vực, sợ hãi và bất mãn, nhưng ra đi giữa những giọt nước mắt từ trái tim tan vỡ của những người trước kia cáo buộc Ngài và vị tỳ khưu đồng hành là những con cọp trá hình. Quả thật xứng đáng là đệ tử Phật, những người bước theo dấu chân của Đức Như Lai, những người nhận lãnh nhiệm vụ rửa sạch bợn nhơ trong tâm người khác và biến đổi tâm ấy thành những kho tàng vô giá đối với họ và với người khác. Đó là bổn phận dựa trên lòng từ bi êm dịu, không bao giờ bị sự hiểu lầm, sự ngờ vực hay ác ý của người khác làm khuấy động. Tâm từ như vậy là thiên đàng và chỗ nương tựa của tất cả những chúng sanh đã kiệt sức vì phiền muộn ở tất cả mọi nơi.

^^^


80. Hối tiếc và ăn năn vô ích 


Khi nghe tường thuật câu chuyện trên, ta có thể hình dung cảnh trạng những người dân làng đáng thương, lệ tuôn đầy mặt, cố gắng cầm chân Ngài Acharn, và khi van lơn không được thì hết lời khẩn khoản thỉnh cầu Ngài sớm trở lại thăm họ một cách đáng thương. Những người ấy thật thà chất phác và trong sạch, nhiệt thành cảm kích trước thái độ từ bi và thanh nhã của Ngài Acharn, có thể hy sinh tất cả cho Ngài. Giống như trẻ con thương yêu quyến luyến cha mẹ, họ ôm chân, níu y, và siết chặt tay Ngài, tất cả mọi người thấy như tim mình thật sự tan vỡ từng mảnh trước sự ra đi của Ngài. Còn lại con đường kinh hành mà họ đã dọn sạch để Ngài đi tới đi lui và túp lều tranh mà họ đã lợp để che mưa đỡ nắng cho Ngài. Đó là những gì tốt nhất mà họ có thể làm và cũng là điều tốt nhất đối với Ngài.

Từ đây trở đi họ không được gặp Ngài nữa, nhưng đó là định luật vô thường bao trùm và thống trị toàn thể thế gian, đang hiển lộ nó bây giờ và một lần dưới hình thức phân ly và tang tóc. Nó sẽ đến, chỉ sớm hay muộn thôi, không năng lực đối nghịch nào có đủ khả năng kháng cưỡng hay chống cự. Còn đối với Ngài Acharn, mặc dù thấu hiểu nỗi niềm sầu muộn sâu xa của dân làng, không gì có thể thuyết phục Ngài đổi ý, ở lại. (Ngài đã cứu họ vượt thoát khỏi những tư tưởng bất thiện và đặt họ vào đúng con đường chân chánh). Giờ đây là lúc Ngài phải ra đi để giúp những người khác, cũng như họ, có thể được cứu vớt. Đó là đặc điểm của bậc Đệ Tử Thánh Thiện được hàm xúc trong thành ngữ Pāli puññakkhettaṁ lokassa -- phước điền tối thượng, thửa ruộng phì nhiêu để thế gian gieo trồng phước báu.

Câu chuyện trên đây dạy cho người Phật tử bài học quý giá rằng cái đang xảy ra với Phật Giáo ngày nay cũng giống những gì xảy đến Ngài Acharn lúc bấy giờ. Chúng ta biết rằng Phật Giáo bị một số người xem là “cọp trá hình”, và cũng như dân trong làng nọ, họ bị dắt dẫn lầm lạc rồi trở thành nạn nhân của chính sự mê lầm của họ. Điều này có thể công khai (hoặc ngấm ngầm) phá hoại Giáo Pháp. Đó là hoàn cảnh của Phật Giáo nói chung, và người Phật tử nói chung thường có thái độ trung lập, vô tư, và im lặng thụ động, như vậy sẽ chỉ có ăn năn hối tiếc, không trả giá nổi.

^^^


81. Sự trợ giúp thâm sâu và rộng rãi 


Lối sống của Ngài Acharn theo đúng đường lối của bậc Thiện Thệ (sugato). Sự giúp đỡ không vị kỷ của Ngài cũng như thời xưa, được ban rải một cách vô tư, theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Trong những lúc ẩn rút vào rừng sâu hoang vắng Ngài ban giáo huấn không những cho người dân thượng du mà cũng dạy những chúng sanh vô hình như ma, quỷ, chư thiên trên quả địa cầu, chư thiên trên các cảnh trời và những vị trời cao hơn gọi là Phạm Thiên. Khi ở thành thị thì các bậc xuất gia cũng như hàng cư sỹ tại gia, giàu như nghèo, trẻ hay già, đều đến với Ngài, bất cứ nơi nào Ngài cư ngụ. Xuyên qua những năm dài giáo huấn và rèn luyện của Ngài, trong những vị nhiệt thành theo tu học và thực hành Giáo Pháp, biết bao vị đã thâu gặt thành quả tốt đẹp và thọ hưởng lợi ích của giáo huấn. Đó là còn chưa kể đến vô số chúng sanh vô hình trong nhiều cảnh giới khác nhau. Không ngoa khi nói rằng trong thời hiện đại, rất ít người có thể làm được như Ngài.

Trong khi Ngài lưu ngụ trong vùng rừng núi, người dân thượng được tắm trong hào quang rực rỡ và chói lọi của giáo huấn của Ngài vào buổi chiều. Vào đêm khuya, Ngài gánh vác nhiệm vụ giải đáp các câu hỏi của những vị Trời trên quả địa cầu và những vị trên các cảnh Trời khác. Đó là những phận sự thâm sâu và khó khăn mà không vị để tử nào có thể đảm nhiệm giúp. Cách giảng dạy cho chúng sanh vô hình không giống như phương cách giáo huấn người, mà đôi khi vài vị trong nhóm đệ tử có thể thay thế Ngài. Liên hệ với các chúng sanh vô hình là một phần vô cùng quan trọng trong công cuộc giúp đỡ chúng sanh của Ngài, và khi ghi lại tiểu sử Ngài, ta không thể bỏ qua mối liên hệ này.

^^^


82. Tác dụng của đôi mắt soi xét của Ngài 


Cách đây không lâu, người viết có đến thăm một vị Acharn đã chứng ngộ những thành quả cao siêu và nổi tiếng sâu rộng là một thiền sư lỗi lạc. Vị thiền sư này được nhiều vị tỳ khưu, sāmaṇera, và thiện tín cư sỹ hầu khắp các nơi trong nước hết lòng tôn kính. Vào lúc bấy giờ Ngài đang có cuộc đàm thoại với một số tỳ khưu đệ tử trong chùa, và người viết cũng được đón mừng 172 và mời đóng góp vào cuộc thảo luận không chính thức này. Chúng tôi thảo luận về một số vấn đề thực hành và nhắc đến Ngài Acharn Mun là thiền sư của Ngài. Theo lời tường thuật của vị thiền sư này thì lúc bấy giờ Ngài Acharn Mun đang lưu ngụ trong một vùng rừng núi xa xôi của tỉnh Chiengmai, cách thị xã khoảng hai hay ba ngày đường. Nhiều câu chuyện quả thật tuyệt vời và đặc biệt , nhưng nơi đây chỉ thuật lại một vài chuyện thôi.

Theo lời vị thiền sư thì ngoài mức độ thành tựu trạng thái tâm tuyệt đối trong sạch mà không còn ai nghi ngờ, Ngài Phra Acharn Mun cũng có nhiều phẩm hạnh độc đáo làm cho các đệ tử tức khắc tôn trọng, kính sợ, và cảm kích. Những vị đệ tử cùng chung sống với Ngài phải thận trọng lúc nào cũng nghiêm chỉnh tự kiểm soát tư tưởng và tính tình cũng như lời nói và hành vi của mình.

“Tất cả những gì mà tôi nghĩ đến, Ngài đều biết, không thể giấu,” vị thiền sư nói, “Tôi cảm thấy ngày đêm mình rất chuyên cần kiểm soát tâm. Vậy mà những suy nghi ấy thường được bộc lộ cho tôi và cho người khác. Nhưng đó là lỗi của tôi vì nhiều khi tâm tôi thích lừa phỉnh. Quý vị biết cái tâm bay nhảy nhanh nhẹn thế nào rồi. Nó phóng nhảy đầu này đầu kia cả ngày cả đêm, trong mỗi khoảnh khắc. Tôi thường không theo dõi kịp để kiểm soát, vì thế thường bị mắng. Và quan trọng hơn, có vài ý nghĩ mà tôi đã quên, nhưng Ngài có thể còn nhớ và nhắc lại cho tôi.”

“Ngài có mắng sư không?” người viết hỏi.

“Có, đôi khi,” vị thiền sư trả lời, “nhưng có những lúc khác Ngài chỉ cảnh báo, và lấy ý nghĩ của tôi làm đề tài cho buổi giảng để dạy tôi và những người khác. Tôi không khỏi cảm thấy hổ thẹn. Tuy nhiên, khi có những người khác cùng nghe thì Ngài ít khi nêu tên, chỉ nhắc đến ý nghĩ sai lầm ấy và giải thích như vậy là sai ở điểm nào.”

“Sư nghĩ như thế nào ? Điều gì đã làm cho Ngài Acharn mắng Sư?”

“Điều gì ư? Mọi việc! Về điểm này tôi nghĩ rằng con người phàm tục thật sự là liều lĩnh, không bao giờ biết sợ hậu quả của ý nghĩ của chính mình. Trong trường hợp của tôi, đó là những vấn đề mà Ngài muốn một người đệ tử của Ngài không bao giờ nghĩ đến. Vì lẽ ấy Ngài nghiêm khắc mắng tôi.”

“Sư có sợ Ngài nhiều không?”

“Sao không sợ? Cơ thể vật chất trông có vẻ an tĩnh và không có gì, nhưng tâm thì run rẩy như thường. Đôi khi tôi nín thở luôn. Vì tôi biết chắc là Ngài có khả năng hiểu biết mọi suy nghĩ của mình, và đọc tâm mình như đọc sách.

“Một đêm, tôi nghĩ đến việc đi tới một nơi kia để tham quan vài địa danh khác nhau. Sáng hôm sau, khi vào chăm nom Ngài Acharn, Ngài liền mau lẹ lấy ý nghĩ ấy của tôi làm đề mục cho lời dạy và cấm tôi đi bất cứ đâu, nói rằng nghe giáo huấn của Ngài thích thú hơn là đi nơi khác. Hình như Ngài quan tâm nhiều đến trạng thái tâm của tôi, có lẽ vì sợ nó có thể làm nạn nhân của những tư tưởng bất thiện.

“Ngài thường cảnh báo và khiển trách tôi. Điều làm cho tôi rất kinh sợ là ngày cũng như đêm, không khi nào có thể trốn thoát cặp mắt tinh vi của Ngài. Mỗi khi tôi lắng tâm yên lặng thì hình như thấy Ngài đã nhìn và quan sát, như Ngài không bao giờ ngủ. Có đêm tôi không dám đi ngủ vì cảm thấy hình như Ngài ngồi trước mặt chăm chú nhìn tôi.

“Quý vị thấy không, trong mỗi khoảnh khắc, lúc nào cũng phải chặt chẽ kiểm soát thân và tâm. Trong khi đi theo Ngài trì bình khất thực, tất cả chúng tôi đều phải luôn luôn giữ chánh niệm. Chúng tôi phải thận trọng canh chừng, không để tâm lẩn thoát ra khỏi thân, nếu không, khi trở về đến chùa, hoặc đôi lúc là đang trên đường về chùa, sẽ bị mắng ghê gớm. Được huấn luyện trong kỷ luật như thế, chúng tôi phải trau dồi và phát triển chánh niệm, ngày và đêm giữ tâm luôn luôn trong thân. Nhưng trong số đông đệ tử, mỗi ngày có ít nhất một người không thực hành đúng vào lúc này hay lúc khác. Và ta có thể chắc chắn rằng cũng như “boomerang” của người Úc, nó trở về chỗ người ném khi chúng tôi nghe lời giảng trong buổi họp. Sau thời giáo huấn, chúng tôi thường thì thầm hỏi nhỏ với nhau để tìm xem đó là ai và không bao lâu có người đứng ra chịu lỗi, xác nhận chính mình là nhân vật vừa được đề cập đến trong câu chuyện. Vì lẽ ấy chúng tôi phải tự kiểm soát một cách rất nghiêm chỉnh dưới sự hướng dẫn và rèn luyện của Ngài.”

^^^


83. Không thương xót đánh vào tự ngã 


Lần đầu tiên vị thiền sư này đến Chiengmai thì lưu ngụ tại Wat Chedi Luang. Khi vừa đến đó chưa đến một tiếng đồng hồ thì Sư thấy một chiếc xe hơi đi vào khuôn viên tự viện và ngừng trước tịnh thất của Sư. Nhìn xem ai đến thì Sư thấy Ngài Phra Acharn Mun ngồi trong xe. Sư ra đón mừng và hỏi Ngài đến có việc gì. Ngài Acharn nói để tiếp rước Sư! Sư hỏi có ai cho Ngài hay là có Sư đến không thì Ngài nói không, và Ngài muốn đến để tiếp rước Sư thì Ngài đi vậy thôi! Nghe như vậy vị thiền sư đâm ra sợ. Ngài Acharn sẽ có thể đọc hết mọi tư tưởng của mình và sẽ quở rầy mình sau đó. Quả thật đúng như vậy, khi vị thiền sư này đến ở với Ngài thì không bao giờ khỏi bị khiển trách nặng nề mỗi khi lơ đễnh trong việc tự kiểm soát.

Trong khi lắng nghe Ngài Acharn thuyết giảng, những ai thực lòng muốn tìm Giáo Pháp, những vị không còn bị tánh tự cao và lòng tự ngã ám ảnh, sẽ lấy làm vô cùng hoan hỷ mà hấp thụ thấm nhuần, vì đó là những lời dạy của Giáo Pháp thuần túy, rất khích lệ và thích thú. Nhưng nếu có ai còn ôm ấp những ý muốn bất thiện và cố tình tìm lỗi nơi Ngài thì thời giảng của Ngài sớm trở nên nóng bỏng và cháy như lửa. Hậu quả là những người ấy sẽ tự thiêu với lửa nóng mà ý định bất thiện của chính họ nung đốt. Ngài Acharn không quan tâm đến việc thời giảng của Ngài có chạm tự ái của ai. Nơi nào có ô nhiễm hay tự ngã, Ngài dùng Giáo Pháp đánh thẳng vào đó một cách không thương tiếc và sẽ không thay đổi đề tài. Đôi khi (nhưng rất hiếm) Ngài cũng nêu tên, nói, “Sư... (tên gì gì) sai lầm khi đêm qua nghĩ như thế này, thế này trong khi hành thiền… Nếu Sư không muốn mời thất bại đến thì phải ngưng ngay những tư tưởng tai hại như vậy. Tại sao Sư không suy tư theo như Đức Phật đã khuyên dạy? Đây là nơi để trau dồi và phát triển tâm và giới đức, không phải là nơi để phát triển những tư tưởng chỉ để tự thiêu đốt Sư.”

Những vị thật tình muốn tìm Giáo Pháp sẽ cảm thấy an tâm và thấy mình tiến bộ được là nhờ những lời khuyến cáo nghiêm khắc của Ngài, mà thật sự Ngài chỉ dạy bảo khi có những tư tưởng bất thiện nghiêm trọng rất tai hại cho người đó. Nhưng với một số ít những người lén lút ôm ấp ác ý đối với Ngài, và Ngài cũng đã biết trước từ lâu, rồi đây lửa nóng của ý định bật thiện ấy dội trở lại thiêu đốt chính họ. Tuy nhiên, nếu họ biết ăn năn hối cải và xin lỗi thì lửa sẽ tắt và mọi việc trở nên an lành.

^^^


84. Phế truất ma quỷ 


Một đêm có một nhóm dân người thượng bàn với nhau rằng hiện giờ có một vị Acharn cao quý đang ở đây, mình nên hỏi thử coi trong kinh sách có câu kệ (gāthā) nào có thể bảo vệ mình chống lại các loài ma quỷ. Rồi họ quyết định ngày hôm sau đến hỏi Ngài. Đêm hôm đó, do oai lực thần thông, Ngài Acharn hay biết điều này và thuật lại cho vị tỳ khưu bạn điều Ngài nghe thấy.

Sáng hôm sau, dân làng đến thăm Ngài và hỏi xin câu kệ ngôn (gāthā)có thể bảo vệ được họ chống lại các loài ma quỷ. Ngài bảo họ cứ đọc tụng thầm 3 chữ buddho, dhammo hay sangho, thì không có loài ma quỷ nào có thể chịu đựng nổi oai lực của những từ ấy. Họ chân thành làm theo lời dạy, không biết rằng đó là phương cách khéo léo đưa họ vào pháp hành thiền. Kết quả sớm thành tựu, và họ vội vã đến phúc trình với Ngài, tường thuật những gì đã xảy diễn khi tâm họ an trụ trong trạng thái nhất-điểm. Ngài xác nhận rằng hành như thế là đúng vì ma quỷ sợ oai lực của những chữ ấy và cố gắng lẩn tránh.

“Kể từ nay, quý vị không cần sợ ma quỷ nữa,” Ngài nói. “Chúng đã chạy mất rồi. Dù những vị chưa thành đạt kết quả tốt đẹp như thế cũng cứ niệm thầm, ma quỷ sẽ sợ hải bỏ chạy khi nghe đến ba chữ ấy.” Rồi Ngài khuyên họ từ đây cứ tiếp tục niệm như vậy mỗi ngày.

Bản tính của người dân thượng là chân thật và dễ dạy. Họ cần mẫn thực hành theo đúng lời dạy. Kết quả thâu gặt tốt đẹp lạ thường, đến mức độ tâm họ trong sáng và có thể hiểu biết tâm người khác, hiểu cả tâm quý vị tỳ khưu cùng lưu ngụ một chùa với Ngài. Điều này trước kia đã có lần xảy ra cho một vị trong làng có hai “con cọp trá hình”, như đã được đề cập đến ở phần trên. Họ sớm đến gặp Ngài Acharn và thuật lại những thành quả tốt đẹp lạ thường của họ, làm cho vài vị tỳ khưu kinh ngạc lo sợ những người thiện tín này có thể đọc tâm mình, đặc biệt biết rằng đôi khi mình không khỏi nghĩ suy về một vài điều không đúng đắn với tư cách của một vị tỳ khưu. Các sư hỏi những người thượng này về những gì họ đã thành tựu vì lo sợ họ lẻn vô tâm mình nghe lén nhiều hơn là ý muốn biết về kỹ thuật đã giúp họ thành công. Với bản chất ngay thật và chất phác họ thẳng thắn nói hết cho các vị tỳ khưu nghe mà không cần cân nhắc từ ngữ. Không phải như người thành thị, họ không vì lịch sự mà che đậy sự thật, sắp xếp sự việc để thay đổi cảm giác của người nghe. Điều này hiển nhiên chứng tỏ mức thành tựu của họ vì nó giúp thuyết phục những vị sư mà họ đã đọc được tâm đêm trước. Những người thượng này cũng thẳng thắn bạch với Ngài Acharn rằng họ đã đọc được tâm Ngài rõ ràng trước khi đọc tâm các vị khác. Khi được hỏi tâm Ngài như thế nào, có sợ ma quỷ không, thì họ mỉm cười nói “Tâm Ngài vượt trên thế gian. Không còn sợ gì hết. Tâm Ngài tối thượng.”

Kể từ lúc bấy giờ, ma quỷ đã trở thành vô nghĩa và tất cả dân làng đều hướng về Ngài Acharn và Giáo Pháp để tìm nơi nương tựa. Những người đã đạt thành tiến bộ tinh thần thuật lại cho những người khác nghe và tất cả mọi người đều tín thành và hoan hỷ tuân theo lời dạy của Ngài Acharn. Khi đến giờ dâng vật thực vào buổi sáng, họ tụ họp đông đủ tại một nơi, và sau khi thọ bát, Ngài Acharn dạy họ nói lớn từ Sādhu! (để ca tụng công đức của nhau). Hành động như thế chúng sanh trong cảnh vô hình cũng hoan hỷ chia sẻ công đức với họ. Ho rất vui mừng lặp lại mỗi ngày.

^^^


85. Sự giúp đỡ rộng rãi của Ngài Acharn tại Chiengmai, đặc biệt giúp chúng sanh vô hình 


Ta có thể ghi nhận nơi đây rằng trong khi lưu ngụ tại Chiengmai, Ngài Acharn giúp đỡ chư thiên trên quả địa cầu và các cảnh trời nhiều hơn là những chúng sanh trong cảnh người, cảnh ma, quỷ, và long vương (nāga). Lý do có thể là vì rất hiếm người có đủ khả năng làm được như Ngài. Và Ngài là một trong số rất ít người, nếu có, mà hàng chư thiên có thể hướng đến để tìm nơi Nương Tựa. Trong thực tế, những vị trời này thường than phiền với Ngài về tình trạng hững hờ lãnh đạm của con người, mù quáng và có thành kiến, không màng biết gì đến họ và hình như cảm thấy hãnh diện thỏa thích phủ nhận, không tin sự có mặt của họ. Hiếm lắm mới có người chấp nhận sự hiện hữu và phẩm giá của họ và có thể trực tiếp giao tiếp với họ, tự nhiên điều này rất hấp dẫn, họ lấy làm hoan hỷ, muốn sống gần người đó. Vì lẽ ấy, họ thường đến gặp Ngài để học hỏi. Nhờ vậy họ có thể hấp thụ mật ngọt của Giáo Pháp, làm cơ thể trở nên thoải mái và kéo dài tuổi thọ.

Chư thiên ngưỡng mộ, tìm đến người đã thành tựu Giáo Pháp để tôn kính lễ bái như Thầy của họ. Ngài Acharn cũng nói rằng số chúng sanh vô hình ở các cảnh giới khác nhau đến yêu cầu Ngài giúp đỡ đông hơn rất nhiều so với loài người. Đây dĩ nhiên là số chúng sanh đến gặp Ngài (và đấy là chưa kể đến những chúng sanh khốn khổ không thể đến đông hơn nhiều so với số đến được). Tuy nhiên, cách giúp đỡ này khó nhìn thấy hơn và như vậy có vẻ bí ẩn đối với những người không thể nhìn thấy được (và cũng cho rằng đó là điều không thể có, vô lý). Xã hội (tư duy theo vật chất) không bao giờ chấp nhận hay công nhận có những chuyện như thế. Nhưng ở một xã hội phát triển thì điều này gần như có thể, và đối với Ngài Acharn, đó là việc bình thường. Bất cứ nơi đâu mà Ngài lưu ngụ, chắc chắn thế nào cũng có những cuộc họp với những chúng sanh như vậy thường tìm đến Ngài xin giúp đỡ, nhất là khi Ngài ở nơi hoang vắng cách xa thành thị, ít phải bận rộn với những công việc trong cảnh người.

^^^


86. Một cuộc viếng thăm của những vị trời từ Đức Quốc 


Câu chuyện sau đây quả thật có một không hai vì liên quan đến những vị trời từ nước Đức đến thăm, khi Ngài Acharn sống trong vùng hoang vu xa xôi của một làng có tên là Ekoh, tỉnh Chiengmai, giữa những người thượng thuộc tộc Muser. Các vị trời này nói rằng mục đích viếng thăm của họ là để nghe thuyết giảng về đề tài Chiến Thắng. Ngài trầm ngâm chú tâm vào một đề mục thích hợp với họ trong một lúc và thấy hiện lên trong tâm câu Pāli akkoodhena jane kothaṁ - vô sân thắng sân. Ngài giải thích cho họ rằng “Người muốn có hy vọng chiến thắng phải trau dồi và phát triển lòng vô sân hay vô bạo lực. Và trong xã hội loài người cũng như trong cảnh giới chư thiên, hòa bình có được như ngày nay là nhờ Giáo Pháp này đối trọng với năng lực của tâm sân và oán thù. Các vị trời cũng phải phát triển đức hạnh này như sợi chỉ thân ái nối liền nhau để chung sống trong xã hội. Nếu không thực hành Giáo Pháp này thì ít nhất là thế giới sẽ không biết đến hòa bình, và nặng nhất thì thế giới này sẽ bị tàn phá.

“Trong thế gian, không bao giờ có thể chiến thắng kẻ thù bằng năng lực của sân hận, dù kẻ thù ấy ở bên trong hay bên ngoài ta, xa hay gần, trong một nhóm người nhỏ hẹp hay một đoàn thể rộng lớn. Tâm sân chỉ làm tiêu mòn và hủy hoại chính mình và kẻ khác. Năng lực của tâm sân càng mạnh, lửa phụt lên càng nóng, và nhanh chóng thiêu đốt thế gian. Đó là vì theo bản chất tự nhiên, sân hận là một thứ lửa có sức tàn phá vô cùng tai hại. Không bao giờ có thể sử dụng loại lửa này để nấu ăn, bởi vì không thể sử dụng sức nóng của nó vào bất luận mục tiêu nào hữu ích. Người muốn làm cho thế gian này là nơi hiếu khách phải luôn luôn tỉnh giác rằng ô nhiễm sân hận là một thứ lửa có sức tàn phá khốc liệt, không bao giờ được để cho nó thiêu đốt mình và người khác.

“Thế gian tồn tại được là nhờ từ bi. Thế gian bị tiêu diệt do bạo lực từ sân hận hoặc tham lam, vốn không bao giờ biết đủ, và lôi cuốn chúng sanh lăn trôi trong vòng luẩn quẩn vô cùng tận. Nhận thức những hiểm họa của sân hận và những lợi ích của từ bi, Đức Phật ban truyền bức thông điệp của Ngài cho những chúng sanh đang cùng trải qua đau khổ và có mục tiêu Chấm Dứt Đau Khổ. Ngày nào mà thế gian còn được từ bi nâng đỡ thì đến ngày ấy thế gian sẽ còn được hưởng cảnh thanh bình an lạc và hạnh phúc. Nhưng nếu không có từ ái trong tâm của con người, ắt không thể có an toàn và thanh bình trong bất luận xã hội nào, cho dù sống sang trọng xa hoa và vô số thiết bị tối tân để tạo hạnh phúc đến đâu. Kết quả chỉ là bất an và bạo loạn ở mọi nơi. Người có trí biết giá trị của Giáo Pháp và những tai hại của ngọn lửa ô nhiễm, phải cố gắng làm dịu bớt hay dập tắt hẳn ngọn lửa đó khi còn có thể làm được. Lơ đễnh dể duôi là phí cơ hội và để cho những hiểm hoạ ấy tiến dần đến mức không còn làm gì được nữa.”

Khi Ngài chấm dứt thời Pháp, những tiếng sādhu rền vang như sấm. Ngài hỏi những vị trời ấy làm thế nào họ biết Ngài ở đây vì họ ở nơi rất cách xa Ngài về mặt địa lý. Các vị ấy nói rằng việc biết Ngài ở đây đối với họ không có gì khó khăn vì những vị trời ở hai nước vẫn luôn thường xuyên liên lạc với nhau. Hơn nữa, giữa hai quốc gia không có gì trở ngại hay ngăn cản như ở cảnh người, qua lại hay đi đâu không cần xe cộ. Chỉ trong một khoảnh khắc của suy nghĩ là đã có thể đến nơi nào mình định đi. Về phương diện này truyền thông hay giao thông tiện lợi hơn ở cảnh người nhiều.

Ngài Acharn nói rằng những vị trời từ Đức quốc thường đến nghe Ngài thuyết giảng giống như các vị đến từ nhiều nơi ở Thái Lan. Nên ghi nhận rằng lối đảnh lễ Ngài của các vị trời rất giống nhau mặc dù họ đến từ những cảnh giới khác nhau. Khi đến thăm Ngài, các vị ấy không đi ngang qua chỗ các vị tỳ khưu ở mà đến từ hướng không có ai, và thường đến lúc đêm khuya, khi chư vị tỳ khưu đã về yên nghỉ, đâu đó im lặng yên tĩnh. Lúc đến, các vị nhiễu ba lần vòng quanh theo chiều kim đồng hồ, giữ Ngài phía bên phải. Tất cả đều rất khiêm nhường, tự kiểm soát và khi ra về cũng nghiêm chỉnh nhiễu ba vòng quanh Ngài và lui ra xa khỏi khu ở của Ngài và các vị tỳ khưu. Sau đó họ nhẹ nhàng cất lên như bông gòn bay trong gió. Đó là phương cách lễ bái để giã từ của các vị trời (11).

11. Các vị trời không quỳ lạy ba lạy giống như cảnh người. Thay vào đó, họ chọn cách đi nhiễu ba vòng quanh Ngài, tốn nhiều thời gian, nỗ lực và phải tự kiểm soát hơn.

^^^


87. Huyết mạch của vị tỳ khưu đầu đà 


Trong rừng sâu hoang vắng tại Chiengmai, cảnh vật và không khí an lành thật thoải mái và tốt cho sức khỏe. Thân thể được nghỉ ngơi, khỏe khoắn, và đời sống an lạc. Việc Ngài Acharn đều đặn giúp đỡ những chúng sanh đến từ 11. Các vị trời không quỳ lạy ba lạy giống như cảnh người. Thay vào đó, họ chọn cách đi nhiễu ba vòng quanh Ngài, tốn nhiều thời gian, nỗ lực và phải tự kiểm soát hơn. 179 cảnh trời vào ban đêm không làm gánh nặng cho Ngài vì người đến học đã được phát triển đầy đủ và đến không phải với mục đích để tìm lỗi Ngài. Với người thường, Ngài dạy buổi trưa hay buổi chiều. Thỉnh thoảng có những cuộc họp vào lúc khoảng bảy giờ tối để dạy các vị tỳ khưu. Phần lớn các vị này đã tiến bộ khá sâu trong Giáo Pháp, cả về định lẫn tuệ, tất cả đều chăm chỉ lắng nghe và nhiệt thành chuyên cần tinh tấn, nhắm đến mục tiêu thành tựu Chấm Dứt Đau Khổ.

Trong hoàn cảnh như vậy, với những thính giả như vậy, những lời dạy của Ngài cũng đặc biệt thích ứng, khởi đầu bằng định, rồi đến tuệ, và rồi tiến đến giai đoạn thâm sâu nhất của Giải Thoát. Giáo huấn của Ngài làm cho thính giả vô cùng hoan hỷ say mê và thấm thía, mỗi lần nghe quên cả thời gian và quên luôn cả thân mình. Những lời dạy của Ngài về pháp hành kéo dài tối thiểu hai tiếng đồng hồ nhưng người nghe không cảm thấy mệt mỏi khó chịu mà lãnh hội đầy đủ, thấy mình vững chắc tiến bộ hơn lần nghe trước. Vì lẽ ấy đối với người nghe, thời gian thính Pháp là cơ hội để nỗ lực chuyên cần, chuyên cần lắng nghe, chuyên cần tự kiểm soát, và chuyên cần quán sát, không kém chuyên cần hơn những sự chuyên cần khác như đi kinh hành hay ngồi thiền.

Người dạy không có ý định gì khác hơn là làm cho người nghe thấu hiểu, đề cập đến những trạng thái của tâm đôi khi biểu lộ samudaya (tức sai lạc, tạo đau khổ hay si mê nhiều hơn là ít đi) và những khi khác biểu lộ magga (tức đúng, chân chánh, tạo ít đau khổ hơn và nhiều trí tuệ hơn). Điểm này nhằm chỉ rõ hai sắc thái tiêu cực và tích cực, bất thiện pháp để tránh xa và thiện pháp cần vun trồng ngay trong hiện tại. Người nghe thấm nhuần thể chất tinh túy của lời dạy, say mê trầm mình trong nội dung của giáo huấn, với tâm chặt chẽ tự kiểm soát trong chánh niệm và trí tuệ, thông thường tiến đạt đến mức độ cao hơn của thiền định và uyên thâm của tuệ minh sát. Bằng cách này, tâm của các vị ấy phát triển nhiều hơn, khi nghe mỗi lời dạy. Lần trước hiểu biết về một điểm trong Giáo Pháp thâm sâu, lần này một điểm khác được củng cố vững chắc hơn, mỗi lần đưa chánh niệm và trí tuệ đến một mức độ bén nhạy và uyên thâm hơn.

Như vậy, mỗi lần nghe giảng thì người nghe vững vàng phát triển trên cả định và tuệ. Ngài dạy những gì mà chính mình đã chứng nghiệm và chỉ ra một cách rõ ràng và sâu sắc chân lý mà chính Ngài đã thành đạt. Do đó, việc chuyên cần thính Pháp vốn đóng góp rất nhiều cho việc đạt được mục tiêu của vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà quan trọng không kém bất kỳ sự tinh tấn nào. Và điều này một lần nữa cho thấy tầm quan trọng hơn nữa của một vị Acharn hay thiền sư tài giỏi để các vị tỳ khưu dhūtaṅga đệ tử hết lòng kính mến và nhiệt thành tuân hành lời dạy, và họ ngưỡng trông lên Ngài như nơi nương tựa ngay sau Tam Bảo. Ngài là lẽ sống của họ, giáo huấn của Ngài là huyết mạch của họ. Họ thành kính tin tưởng tuân theo những lời dạy của Ngài về lối sống và phương pháp thực hành. Trong khi hành thiền, nếu có hoài nghi hay gặp vấn đề khó khăn, họ liền đến xin Ngài khai thông và nghiêm chỉnh, thành kính tuân hành. Vì vậy, đông đảo những vị tỳ khưu dhūtaṅga theo Ngài thiền sư Acharn để được Ngài hướng dẫn và đào luyện. Điều này được thấy rõ ràng trong trường hợp hai Ngài Phra Acharn Mun và Phra Acharn Sao, mỗi vị có một số lớn đệ tử dhūtaṅga. Nhất là trong các tỉnh vùng Tây Bắc Thái Lan.

Vào lúc về ở Chiengmai, Ngài Phra Acharn Mun quyết tâm sống tuyệt đối ẩn dật nhằm nỗ lực tiến đến mục tiêu cùng tột. Trước đó Ngài thường nghe nói rằng khả năng của Ngài chưa đủ (mặc dù lúc ấy đã thành đạt tầng Thánh thứ ba, Bất Lai hay A Na Hàm, tại động Sarika), nhưng sau thời gian sống ẩn dật và tận lực chuyên cần, Ngài không còn nghe những lời ấy nữa. Được biết rằng Ngài có rất nhiều đệ tử, xuất gia và cư sỹ, đến từ hầu như khắp cùng các nơi trong xứ.

^^^


88. Cuộc mạo hiểm với một con voi 


Một lần nọ, Ngài Acharn cùng đi với hai vị đệ tử, Ngài Phra Acharn Mahā Thongsukh, Wat Suddhāvas trong thị trấn Sakol Nakhorn và Ngài Phra Acharn Khao, Wat Tham Klong Phane. Các Ngài đến một hòn núi, thấy trên con đường mòn nhỏ hẹp dẫn lên đỉnh nói có một con voi to lớn với cặp ngà đáng sợ chặn ngang đường. Không có đường nào đi vòng, và mặc dù voi xem có vẻ là voi nhà, nó đứng ngay giữa đường và không thấy chủ của nó đâu. Sau khi các Ngài bàn thảo cùng nhau, Ngài Acharn nói Phra Acharn Khao gọi voi và xin đi qua. Lúc bấy giờ con voi đang ăn lá tre cách các Ngài khoảng năm thước, nhưng vì quay đuôi về hướng các vị tỳ khưu nên không thấy các Ngài. Ngài Phra Acharn Khao yêu cầu, “Này ông bạn to lớn của tôi! Tôi muốn nói chuyện với ông.” Có lẽ voi chưa nghe rõ, nhưng bỗng dưng ngưng ăn. Khi Phra Acharn Khao lặp lại một lần nữa thì voi quay mình, hướng đầu về ba vị tỳ khưu. Voi vẫn không cử động nhưng vảnh hai tai dựng lên trong tư thế đề phòng, trông chừng.

Phra Acharn Khao nói một lần nữa: “Này ông bạn to lớn của tôi! Tôi muốn nói chuyện với ông đây. Ông to lớn và mạnh mẽ. Chúng tôi là tỳ khưu không có sức mạnh, và rất sợ ông, ông bạn to lớn ạ. Chúng tôi muốn đi ngang qua ông và rất cám ơn nếu ông vui lòng nhường đường cho chúng tôi. Ông cứ đứng như vậy thì chúng tôi rất sợ, không dám đi ngang qua.”

Khi nghe như thế, voi quay mình trở lại, hướng về phía bụi tre và thọc cặp ngà vào trong bụi, ý muốn tỏ rằng bây giờ các vị tỳ khưu có thể đi ngang qua, vô hại. Ngài Acharn nói rằng bây giờ mình được phép đi qua, và theo hàng một, cách voi độ nửa thước, Ngài Acharn đi giữa, Ngài Acharn Khao dẫn đầu, và Phra Acharn Thongsukh đi sau cùng, nhưng khi Ngài Acharn Thongsukh vừa đi ngang qua đuôi voi thì cái móc ở đầu klod của Ngài mắc vào một cành tre, mắc kẹt trong bụi tre. Hai vị đi trước phải trở lại nhìn sư đang cố gắng để gỡ cái móc ra khỏi cành tre mất mấy phút, mồ hôi dầm dề vì sợ con voi đang nhìn họ suốt quãng thời gian biết đâu nó đổi ý. Khi gỡ xong cái klod ra khỏi nhánh tre Phra Mahā Thongsukh liếc nhìn voi, thấy nó đứng yên lặng hiền lành như con chó bông to lớn, cặp mắt sáng ngời như thủy tinh, trông thấy hiền lành dễ thương hơn là đáng sợ. Tuy nhiên, vào lúc bấy giờ Ngài không khỏi cảm thấy bất an, run sợ. Mãi đến khi gỡ xong cái klod ra khỏi nhánh tre và cả ba vị đi qua khỏi con voi Ngài mới nghĩ được là cặp mắt voi quả thật dễ thương!

Khi cả ba vị đi được một chút nữa, Ngài Phra Acharn Khao quay mình lại hướng về voi và nói: “Này ông bạn to lớn của tôi! Giờ đây chúng tôi đã đi qua khỏi ông rồi. Xin ông tự nhiên tiếp tục ăn.” Bỗng nhiên voi rút cặp ngà ra khỏi bụi tre và thở một hơi mạnh bằng vòi.

Khi về đến nơi cư ngụ, các vị tỳ khưu bàn thảo về con voi, nói rằng nó quả thật dễ thương, chỉ không nói được tiếng người như chúng ta. Ngài Phara Mahā Thongsukh hỏi Ngài Acharn Mun Ngài có đọc tâm của con voi khi họ đi ngang qua không, nói rằng:

“Khi voi vừa nghe tiếng của Phra Acharn Khao thì bỗng nhiên quay đầu hướng về chúng ta, lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng nó sắp tấn công. Với cặp ngà to lớn, nó vểnh tai lên trông rất dễ sợ. Nhưng sau khi hiểu mục đích của chúng ta thì nó trở nên gần như một con người mang hình thú và thọc cặp ngà vào bụi tre như để nói rằng, “Những người bạn nhỏ bé của tôi giờ đây quý vị có thể đi qua. Tôi đã dẹp hết tất cả khí giới rồi.” Rồi Ngài đùa với Ngài Acharn Khao: “Sư quả thật tài, nói chuyện với voi như nói với người, và gọi voi bằng ông bạn to lớn của tôi! Nhưng ông bạn to lớn ấy cũng dễ bị phỉnh. Hình như nó cũng rất hãnh diện với cái chức danh mới, và đã làm tròn đúng bổn phận của chức 182 danh đó. Nhưng người em nhỏ nhất thì rất vô ý, để cho cái klod của mình mắc kẹt trong những cành tre, và lại còn sợ ông bạn to lớn đổi ý.”

Nghe câu chuyện đùa này, Ngài Acharn vui cười nói, “Tại sao lại không đọc tâm của nó? Đây là vấn đề sống chết mà. Thậm chí những vấn đề nhỏ nhặt không quan trọng như chim chóc hay những con khỉ, đôi khi sư cũng đọc ý nghĩ của chúng.”

“Lúc bấy giờ nó nghĩ về chúng ta như thế nào ạ?” Phra Mahā Thongsukh hỏi.

“Trước hết nó lo sợ vì nghe có người hỏi đến mình, và chuẩn bị sằn sàng đối phó. Nhưng khi thấy màu y của chúng ta, nó biết ngay không có gì hại cả. Nó đã quen thấy màu này và chủ nó đã dạy không nên sợ. Khi nghe Acharn Khao gọi là người anh to lớn thì nó rất hoan hỷ.”

“Nó có biết người ta nói gì với nó không ạ?”

“Tại sao không? Nếu nó không biết, chủ nó đã không để nó kéo gỗ trong rừng. Con voi này ít nhất cũng trên trăm tuổi. Chỉ cần nhìn cặp ngà dài khoảng hai thước thì đủ biết. Chắc nó đã sống khá lâu với người. Chủ nó chắc nhỏ tuổi hơn nó nhiều. “Vì lẽ ấy nó có thể hiểu biết tiếng người.”

“Nó nghĩ gì khi thọc cặp ngà vào lùm tre ạ?”

“Nó chỉ muốn cho chúng ta biết là cứ tự do đi.”

“Ngài có đọc cái tâm của nó trong khi mình đi ngang qua không ạ?”

“Dĩ nhiên là Sư có đọc, và Sư biết rằng nó rất vui lòng để cho chúng ta đi qua.”

“Nhưng con chỉ sợ nó có thể thình lình đổi ý và tấn công chúng ta, ít nhất là để đùa cho vui.”

“Thế đấy, con đã bị suy nghĩ hoang dại của mình làm rối trí.” Ngài Acharn khiển trách. “Nếu cái tâm của con cũng chăm chỉ và không mệt mỏi như thế trong việc nghĩ về sự thật thì tốt hơn cho con, nhưng đó là thói quen của đa số. Người ta chỉ thích ôm ấp và dưỡng nuôi những ý nghĩ tạo phiền não và loạn động và bỏ lãng không chú ý đến sự thật. Giờ đây con muốn làm gì? Dai dẳng đeo níu ý nghĩ về con voi suốt đêm và hoàn toàn không quan tâm đến Giáo Pháp nào nữa phải không?”

Phra Mahā Thongsukh yên lặng, biết mình đã lầm lỗi. Câu chuyện trên do Phara Mahā Thongsukh tường thuật.


^^^


89. Trường hợp một vị tỳ khưu có tính nói lắp 


Những vị có tính nói lắp hoặc nói không kiểm soát luôn luôn bị Ngài Acharn nghiêm khắc quở rầy đến mức có người sau này được biết là bị mất trí. Thí dụ điển hình là có một vị tỳ khưu ở với Ngài một nơi một thời gian. Vị Sư này có thói quen thường lặp lại tức khắc bất luận gì Ngài Acharn vừa nói. Trong mấy ngày đầu, sư được nhắc nhở là nên quan tâm đến công việc của chính mình, tức kiểm soát tâm của chính mình, thay vì lo việc của người khác. Tỳ khưu thực hành Giáo Pháp phải thận trọng chú tâm quan sát những lỗi lầm của chính mình phát xuất từ tâm mình. Nhưng những lời cảnh báo của Ngài Acharn hình như đã rơi vào tai điếc, bởi vì vị tỳ khưu này vẫn không thể sửa lỗi. Cao trào của câu chuyện là vào một buổi sáng khi Ngài Acharn dẫn tỳ khưu vào làng trì bình như thường lệ.

Ngài Acharn có thói quen đặc biệt là lấy bất kỳ cái gì gặp trên đường làm đề tài cho bài giảng trên đường đi cho các vị tỳ khưu đi sau. Vào buổi sáng hôm ấy Ngài thấy một con bò con xinh xắn nhảy nhót chạy theo đùa giỡn quanh quẩn bên cạnh bò mẹ. Khi thấy chư vị tỳ khưu đi đến thì nó kinh sợ, vội vã chạy đến núp dưới cổ mẹ, ở trong vị thế trông giống như nó cõng mẹ trên cổ. Nhưng bò mẹ thì đã quen nhìn thấy quý vị tỳ khưu nên không thấy vấn đề gì, không phải như bò con, ẩn núp dưới cổ mẹ và lỏn lẻn lén nhìn người lạ với vẻ hoài nghi lo sợ. Điều này gợi ý Ngài Acharn có lời chỉ dạy các vị tỳ khưu, nói rằng trong khi bò mẹ không chút gì ảnh hưởng gì thì bò con rất sợ, nếu không sợ ắt nó không cõng mẹ như thế.

“Con người cũng vậy”, Ngài nói tiếp. “Họ luôn luôn phải núp dưới bóng một ai đó, hoặc mẹ, cha, hay một người gần gũi. Trong thời niên thiếu, họ cần chỗ ở và sự bảo vệ. Đến lúc trưởng thành, họ vẫn cần sự bảo vệ, nhưng theo một kiểu khác, và đến tuổi già họ vẫn cần phải lệ thuộc vào người khác. Rất ít ngườ tự mình làm chỗ ở và bảo vệ cho mình. Con người như thế liên tục yếu đi vì thiếu tự chủ. Dù già yếu như thế nào và bất luận ở nơi đâu, họ không tránh khỏi phải quy hàng người khác. Chư vị tỳ khưu cũng vậy, phần đông quý vị cảm thấy không nơi nương tựa, tự thấy bơ vơ một cách không biết xấu hổ và phải luôn luôn tùy thuộc nơi sự giúp đỡ của người khác. Họ lười biếng và sợ cực khổ sẽ khởi sanh từ những việc làm thiện. Những vị tỳ khưu như thế giống như người thở bằng cái lỗ mũi của người khác, và không thể hấp thụ chân lý của câu Phật ngôn “attā hi attano nātho” - mỗi người là nơi nương tựa của chính mình. Chúng ta là Phật tử, chúng ta nên tận lực thở bằng cái lỗ mũi của chính mình để có thể sống độc lập. Mọi điều khuyên dạy của thầy, ta phải cân nhắc suy tư tận tường và thực hành đúng. Bằng cách đó ta sẽ không luôn luôn tùy thuộc nơi thầy và một ngày kia trở thành một Đệ Tử Cao cả, hoàn toàn tùy thuộc nơi chính mình.”

Những lời này được dạy trên đường đi vào làng, và khi Ngài Acharn dứt lời một lát thì vị tỳ khưu mà thường bị khiển trách bắt đầu lảm nhảm, lặp lại những lời dạy, bất kể lễ nghi. Điều này chưa bao giờ xảy ra trong nhóm đệ tử. Ngài Acharn quay lại quở rầy vị tỳ khưu đang lảm nhảm. Ngài nói, “Con có thể khùng điên bây giờ. Trông con giống như con chó điên nhai cắn tất cả những gì người ta ném cho. Tại sao con không nhìn trở lại tâm mình? Nếu con tiếp tục lảm nhảm như vậy, chắc chắn con sẽ trở nên điên khùng rất sớm!”

Ngài Acharn dứt lời và không nói gì thêm. Vị sư ấy lặng thinh, gương mặt không thể tả. Đến giờ độ ngọ sư chỉ ăn chút ít. Những vị sư khác thấy thế không dám nói gì vì sợ làm cho sư càng thêm xấu hổ và lúng túng. Ngày hôm đó không ai làm phiền vị sư này vì họ nghĩ tốt nhất là để sư một mình. Nhưng đến đêm mọi người nghe tiếng vị đó một mình la hét và rít lên trong thất của mình. Các vị tỳ khưu khác nghe tiếng nên chạy đến xem chuyện gì xảy ra với vị tỳ khưu kia và họ thấy vị ấy như là bệnh nhân tâm thần lảm nhảm điều gì đó mà sau nghe ra được thì là vị ấy hối hận vì đã bất kính với Ngài Acharn.

Mọi người đều kinh ngạc nhìn cảnh này và sau đó họ phải gọi một vài dân làng mang thuốc đến. Sau khi cho thuốc và xoa chân tay cho vị tỳ khưu này, vị ấy bình tĩnh lại và có thể ngủ đến sáng hôm sau. Rồi vị ấy được đưa đến bác sỹ để chữa thêm, tình trạng cải thiện hơn trừ khi thỉnh thoảng mới lên cơn. Sau đó không ai nghe về vị tỳ khưu này nữa.

Câu chuyện này do một vị tỳ khưu có mặt tại đó tường thuật, cho thấy rằng các vị tỳ khưu dưới sự đào luyện và hướng dẫn của Ngài Acharn phải nghiêm chỉnh tuân hành kỷ luật như thế nào. Chỉ một lỗi nhỏ cũng bị khiển trách và cảnh cáo. Lỗi lớn sẽ bị mắng gay gắt. Những ai có thể rút được bài học từ những lời mắng và cố gắng sửa mình chắc chắn sẽ dần dần tiến bộ, còn những ai mắc lỗi trầm trọng và không thể kiểm soát mình sẽ phải chịu hình phạt nặng nề. Không vì quen thân với Ngài mà được giảm nhẹ vì Ngài gần như không thân với bất kỳ ai. Những ai sống với Ngài phải hiểu điều đó và luôn phải để tâm tới cặp mắt (cả mắt tâm linh lẫn mắt thường) tinh vi của Ngài.


^^^


90. Khả năng đặc biệt thích nghi với hoàn cảnh 


Theo những gì được thu nhặt từ các câu chuyện mà nhiều vị Acharn khác nhau dưới sự hướng dẫn của Ngài Acharn tường thuật thì chỉ có những vị đã chứng ngộ cao mới được hưởng sự thân mật với Ngài Acharn. Khi ấy, họ được chấp nhận ngang hàng với Ngài và không cần phải bắt thật nghiêm chỉnh thi hành kỷ luật. Nhưng cũng nên ghi nhận rằng thái độ của Ngài đổi thay tùy nơi chốn và đôi khi tùy lúc. Sự biến đổi đôi khi đột ngột đến độ chính những người từng sống với Ngài cũng khó mà theo kịp. Hơn nữa, những trường hợp thay đổi cũng không giống nhau. Đó là khả năng ứng biến tùy cảnh ngộ đặc biệt và duy nhất của Ngài mà không ai có thể bắt chước. Thỉnh thoảng có những lúc dễ dãi khi sự căng thẳng và nghiêm khắc được nới lỏng đôi chút, và cũng có khi Ngài cũng thuật cho nghe nhiều câu chuyện vui khác nhau. Như chuyện sau đây liên quan đến chính Ngài lúc còn tại gia cư sỹ.


^^^


91. Giai thoại về Ngài khi còn tại gia 


Khi còn thanh niên, Ngài Acharn đã từng là một ca sỹ trong làng. Một hôm, làng có buổi lễ hội có hàng ngàn người tham dự, trong một cơn hăng hái, Ngài đột ngột tình nguyện lên sân khấu tranh tài thi hát với một cô ca sỹ (12). Tuy nhiên cô này là ca sỹ chuyên nghiệp lâu năm rồi, trong khi Ngài Acharn mới vào nghề. Chẳng bao lâu đã rõ ràng là Ngài không thể đọ với cô kia vì ngay từ đầu Ngài đã dưới tay. Nhưng vừa đúng lúc được cứu thoát nhờ một người bạn tên Chan (về sau là Ngài Upāli Guṇūpamācāriya), lúc ấy là một thanh niên lớn hơn Ngài Acharn vài tuổi và cũng đang theo dõi cuộc tranh tài. Chan thấy nếu cứ để tiếp tục như thế, bạn mình chắc chắn sẽ thất bại nhục nhã.

Cô ca sỹ trẻ tuổi tựa như cọp vừa tới tuổi trưởng thành, nanh vuốt và răng móng bén nhọn, trong khi bạn mình như chồn con vừa mọc răng sữa. Quả thật là rất dốt mới dám tranh tài với hổ dữ, chắc chắn sẽ bị lột sống.

Nghĩ như vậy chàng thanh niên liền nhảy lên sân khấu giận dữ quát to, “Chú mày đây nè! Đang ca hát, vui chơi! Này Mun, tôi chạy đi tìm chú khắp nơi mà không gặp. Chú có biết là mẹ chú vừa bị tai nạn không? Bà té từ tầng trên xuống, không biết sống chết thế nào. Tôi chỉ thấy bà té ngã xuống và mọi người biểu tôi chạy tìm chú. Tôi chạy tìm chú từ buổi chiều, bây giờ mệt lử và đói bụng quá. Từ sáng đến giờ có ăn gì đâu, và hiện giờ cảm thấy như muốn té xỉu.”

Chàng thanh niên Mun nghe vậy thì kinh hoàng. Con hùm cái và mọi người nghe Chan nói cũng vậy. Chàng Mun hỏi, “Mẹ tôi ra sao?”

Chan đứng trên sân khấu, giả bộ mệt mỏi và đói bụng nói, “Có thể bà đã chết.” Hiện giờ tôi cũng vậy.” Rồi thì chẳng khó nhọc gì, Chan kéo Mun xuống khỏi khán đài giữa đám đông hàng ngàn người thông cảm vì sợ. Họ luồn qua đám đông rồi chạy hết tốc lực về phía làng của Mun. Trên đường, Mun luôn hỏi mẹ của mình đang làm gì mà ngã từ trên nhà xuống, nhưng Chan chỉ nói là anh không biết chắc vì chỉ nhìn thấy bà một phút thôi rồi mọi người bảo đi gọi bạn về. Họ sẽ sớm biết là bà còn sống hay đã chết. Chan chạy với bạn cho đến khi đủ xa để Mun không thể quay trở lại cuộc thi tài.

Các làng thời đó cách nhau xa, nằm hai bên một khu rừng hoang nổi tiếng là có nhiều thú dữ và ma. Ít người dám đi ngang qua một mình hay nhóm nhỏ. Chan đột ngột đổi giọng và nói: “Mẹ chú không sao đâu, Mun. Bà không có té gì hết. Chú biết không? Tôi thấy chú không còn hy vọng thắng cuộc, sắp bị con cọp cái lột da nuốt sống, và như vậy là một sỉ nhục cho chúng ta và cho cả làng mình. Vì lẽ ấy tôi bịa ra chuyện này. Giờ đây ai nấy đều thông cảm cho chú phải bỏ cuộc nửa chừng. Nhờ mẹo của tôi chú đã được cứu thoát. Có cám ơn tôi không?”

“Anh Chan, anh thật ác!” Mun la lên. Giá anh đừng xen vô. Anh biết không, đó là mẹo của tôi để lùa con cọp cái vào bẫy. Sau đó chính tôi sẽ lột da và xé xác nó, nhưng bây giờ thì anh làm hỏng hết trò chơi! Giá tôi trở lại đó được!”

“Đó, đó! Chú mày không biết đủ nhiều về cô đó. Nếu cứ để chú tiếp tục như thế tôi chắc chắn rằng chú sẽ xấu hổ trước cả ngàn dân chúng. Đừng có nói khoác nữa và hãy tạ ơn tôi đã cứu thoát tai nạn đi.”

Như vậy cả hai chàng thanh niên đều vắng mặt trong cuộc lễ đêm ấy. Đúng ra thì câu chuyện này không trực tiếp liên quan đến đời sống tôn giáo của Ngài Acharn nhưng đó là một giai thoại về cuộc đời của hai thanh niên mà về sau trở thành những bậc siêu đẳng tuyệt vời trong Phật Giáo.

Câu chuyện khác liên quan đến một bài trong Jākata (Túc Sanh Truyện, về tiền thân của Đức Phật), gọi là Vessanatara rất phổ biến ở Thái Lan thời đó. Tài năng khôn khéo và trí lanh lẹ của Ngài Upāli được thấy như sau:

Một lần Ngài Acharn hỏi Ngài Upāli tên bà mẹ của một nhân vật trong Jākata có tên Mahdsee là gì mà không thấy kinh điển đề cập đến. Ngài Upāli hỏi lại sao mà cậu dốt thế, trong thành phố ai cũng biết. Ngài Acharn bối rối, hỏi một lần nữa là tên bà được đề cập đến trong sách nào. Ngài Upāli nói không có kinh sách nào đề cập đến hết, bởi vì ai cũng biết bà là một thiếu phụ có giọng nói lớn tên là Orb ở cách chùa không xa. Ngài Archan lấy làm ngạc nhiên bởi vì Ngài nghĩ rằng không thế nào một nhân vật trong tiền thân của Đức Phật mà hiện nay lại còn sống ở gần chùa trong thị trấn đấy. Thấy thế, Ngài Upāli nói rằng mình muốn nói đến một bà có tên như thế là mẹ của cô gái tên Mahdsee, cả hai đều cư ngụ trong một nhà cách chùa không xa mà cũng không xa làng của chính Ngài Archan.

Câu chuyện này cho ta một ý niệm về trí thông minh lanh lẹ và tánh khôi hài của Ngài Upāli, lúc trẻ là bạn thân nhất và về sau là hàng sư huynh của Ngài Acharn.

12. Theo lối thi tài này người ca sỹ phải chính sáng tác lời ca và trình bày liền tại chỗ. Không bên nào có thể chuẩn bị trước, vì ban giám khảo chọn đề tài ngay vào lúc bấy giờ, sau đó ca sỹ phải lập tức bắt đầu cất giọng - tranh luận hay giả vờ cãi nhau bằng văn vần, không bao giờ bằng văn xuôi. Người thi tài mà lập bập hay do dự, ăn nói không trôi chảy như đối thủ mình thì được xem là thua cuộc. Do vậy mẹo là phải tìm từ kết thúc khó ghép vần. Thì người bắt đầu chỉ đọc một phần của bài hát và để đối thủ tiếp tục bài thơ có từ cuối phải vần với từ cuối của từ kết thúc phần trước.


^^^


92. Cuộc viếng thăm của vua trời Sakka - Tâm là Giáo Pháp 


Trong khi nhập hạ tại làng Narm Mao, quận Mae Ping, tỉnh Chiengmai, Vua trời Sakka (Đế Thích) thường đến thăm Ngài nhiều nhất, đi cùng với những người hầu cận. Đối với những vị trời này Ngài Acharn thường thuyết giảng về tâm từ ở mức độ appamaññā brahmavihāra (vô lượng tâm - không giới hạn, bao trùm tất cả, và vô ngã) bởi vì các vị ấy thích nghe về đề tài này hơn tất cả.

Ngài Acharn nói rằng con người là những người chủ trực tiếp của Phật Giáo và như vậy con người phải hết lòng tôn trọng Giáo Pháp như các vị trời và những vị nāga (long vương). Có thể là con người không thể làm y hệt theo các vị vô hình này, nhưng kinh điển đã dạy những phương pháp lễ bái khác nhau. Chỉ vì con người lơ đễnh không lưu tâm đến lời dạy, và phần đông xem thường, vì thế con người tự làm cho mình mất đi tình trạng an lành và hạnh phúc. Trong thực tế, Phật Giáo đã ban truyền tất cả những lời khuyên dạy, những nghi thức và phẩm hạnh đạo đức cần thiết cho tình trạng yên ổn an lành cho người biết tôn kính hướng tâm về Giáo Pháp.

Trên thế gian, tâm là chủ. Nếu tâm thô thiển và kém phát triển thì tất cả những gì liên hệ với nó cũng thô thiển và kém phát triển tương xứng. Cũng giống như một cái thân dơ bẩn khắp mình. Bộ quần áo nào đụng tới thân thì cũng lây bẩn. Mặc dù theo bản chất tự nhiên, Giáo Pháp là trong sạch, nhưng cũng trở nên ô nhiễm khi tiếp xúc với cái tâm ô nhiễm. Một bộ quần áo sạch để trên một đống rác dơ dáy bụi bặm và một người có tâm dơ bẩn khoác lên mình để phô bày một lớp kinh điển (giống như chó sói đội lốt cừu) cũng không thể làm gì tốt đẹp.

Người mà tâm chưa từng được khai hóa trong Giáo Pháp ắt không bao giờ có thể hưởng thọ lợi ích của Pháp, măc dù trong thực tế Pháp có thể tạo nhiều lợi ích vô kể. Người ấy chỉ có thể cung cấp dịch vụ đầu môi và sự thực hành Pháp chỉ là một trò hề. Giáo Pháp không là gì khác ngoài tâm. Việc thực hành Giáo Pháp phải hướng đến sự trau dồi hay thanh lọc tâm của một người. Con đường của Pháp là con đường phát triển tâm. Nghĩ rằng Giáo Pháp ở đâu ngoài thân-và-tâm là không hiểu Giáo Pháp trong ý nghĩa thực sự và cốt lõi. Vì vậy, thân-và-tâm của một người tự nó chính là Pháp. Hành động thiện và bất thiện của người ấy tạo quả cho Pháp; và vì thế người ấy trải nghiệm hạnh phúc và đau khổ do mình tạo ra.

Khi một người hiểu Pháp một cách sai lầm là đã bỏ lỡ lợi ích đáng ra có thể thu được từ Pháp. Lẽ dĩ nhiên, đôi khi người đó có thể thu gặt vài lợi ích, nhưng một lần nữa, đó là lợi ích sai lầm. Ta chỉ cần nghĩ đến kết quả của một bài toán cộng, trừ, nhân hay chia; đến may hay vá quần áo sai cách; đến việc thực hiện nhiệm vụ sai cách giữa hai người như vợ và chồng; cách kiếm tiền hay lối xài tiền sai lầm, lái xe sai cách, v.v. Bất luận điều gì ta làm sai cách cũng không thể đạt được mục đích mà ta muốn. Trái lại, nó sẽ đưa đến phản tác dụng dưới hình thức thất vọng, phiền muộn. Điều quan trọng hơn nữa là những kết quả lầm lạc, không mong muốn ấy chắc chắn gây ảnh hưởng bất lợi cho người hành động sai lầm, dù cho người ấy có biết đến những kết quả ấy hay có muốn những kết quả ấy không.

Đối với người Phật tử, điều tối quan trọng là biết phân biệt giữa đúng và sai. Giáo Pháp là chân lý, và nếu một người hiểu sai chân lý thì chính người ấy đáng bị khiển trách và phải chịu hậu quả. Người chấp nhận Giáo Pháp thì chính mình trở thành Giáo Pháp, và có thể ban rải sự an lành đến mình và đến những người có liên quan. Nếu không chấp nhận Giáo Pháp thì kết quả sẽ là hoài nghi, ác cảm, hận thù, đưa đến kết quả là lửa hung bạo sẽ thiêu đốt cả người tạo ra nó và tất cả những người có liên quan. Khi tâm mang theo nó ngọn lửa thiêu đốt mình thì tìm đâu ra tình trạng an lạc? Và khi thế gian cho phép một cái tâm như thế cầm quyền phán xử và lèo lái mọi công việc của quốc gia thì làm thế nào thưởng phạt công minh và đem lại trạng thái thanh bình an lạc cho quốc dân?

Ngài Acharn nói rằng từ ngày xuất gia, Ngài rất hạnh phúc rút vào việc quán chiếu Giáo Pháp của Đức Phật và đã nhận thức được Giáo Pháp sâu rộng thế nào, rộng hơn đại dương mênh mông và sâu hơn biển cả ở điểm rộng nhất và sâu nhất. Đó là sự vi tế của Giáo Pháp vì Pháp cứ sâu hơn, rộng hơn và vi tế hơn với thành quả của mỗi bước tiến trong pháp hành. Ngài thấy nếu cần thiết, có thể luôn luôn thành kính đảnh lễ Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng vì điều đó là hạnh phúc an lạc hơn tất cả việc làm nào khác. Không chán, không mệt, bởi vì Phật, Pháp và Tăng không bị giới hạn bởi thời gian, lúc nào cũng ở với Ngài. Không còn trở lại cảnh giới của Vô thường, Khổ và Vô Ngã nữa.


^^^


93. Trường hợp một cái tháp xây dở 


Nhiều đêm, khi ngồi thiền, Ngài Archan thấy hình ảnh một chú sāmaṇera và một cô gái đi tới lui quanh vùng. Không biết họ định làm gì, nên Ngài hỏi họ. Họ trả lời là họ đang xây một cái tháp nhưng đều chết khi công trình chưa hoàn tất. Chú sāmaṇera là em của cô gái kia. Cả hai cùng dính mắc vào kế hoạch lúc trước nên cả hai còn đi quanh quẩn nơi này mãi như vậy. Trong thực tế, họ không bị dày vò bởi những đau khổ khác bằng sự dính mắc của chính mình nên không thể đi tái sanh vào một cảnh giới cao hơn.

Biết được chuyện này, Ngài Acharn thuyết giảng cho họ một thời Pháp, khuyên dạy rằng quả thật là vô ích khi lo âu luyến tiếc quá khứ nó đã qua, không còn sửa đổi hay làm gì được nữa. Dù có mong muốn thế nào, ta không thể đem nó về hiện tại. Dính mắc theo nó chỉ làm ta buồn và thất vọng. Tương lai cũng vậy. Hãy để yên cả quá khứ và tương lai như chúng là. Ta phải sử dụng thời gian hiện tại đúng cách vì nó còn nằm trong tầm tay ta. Sự thật này cũng cần được áp dụng cho việc xây tháp.” Ngài nói. “Nếu việc phải xảy ra như các con muốn thì các con đã xây xong tháp. Trong thực tế là hai con đã chết, điều này cho thấy điều đó là không thể. Giờ đây lại bị sự nuối tiếc của chính mình gây phiền muộn rằng mình đã chết trước khi hoàn mãn công trình. Đó là lỗi lầm thứ nhì. Rồi hai con luôn lo lắng về việc này, cố gắng kết thúc một việc cho dù không bao giờ làm được là lỗi thứ ba. Lỗi lầm hay suy nghĩ sai lầm ba lớp này không kết thúc ở đó. Nó tạo ra việc tái sanh vào nhầm cảnh và kết quả là đau khổ không có lợi. Tất cả những cái đó bắt nguồn từ thái độ sai lầm trong tâm của các con. Do đó các con nên thay đổi thái độ sai lầm này vì chính mình và đừng hy vọng vào những gì không thể nữa.

“Ý định xây cất bảo tháp chính nó là phước báu để thu từ đó nhưng đừng bao giờ mang gạch, đá và những vật liệu xây dựng khác theo các con. Cái thuộc về các con khi xây cất tháp là phước báu (tâm thiện và sự cố gắng) của các con, chứ không phải chính cái tháp. Bất luận phước báu nào phát sanh do tâm lành ấy, dù ít hay nhiều, đúng là sở hữu của hai con. Tại sao còn bận rộn lo lắng cho đống gạch và đống đá? Người tạo phước mang phước báu theo mình chớ không bao giờ mang theo gạch, đá hay những vật khác mà họ đã bỏ lại.

“Hãy nghĩ đến công trình cất chùa, đắp đường, đào hồ nước, hay dâng cúng tiền bạc và những gì khác. Những món xây cất hay dâng cúng ấy chỉ là phương tiện biểu lộ động cơ thúc đẩy người tạo phước. Chính nó không phải là phước báu, hạnh phúc trên các cảnh trời hay hạnh phúc Niết Bàn. Sau một thời gian những món ấy sẽ hao mòn, hoại diệt và tan rã. Nhưng phước báu thành đạt được nhờ xây cất và dâng cúng sẽ mãi mãi còn trong tâm người tạo phước. Chính cái tâm (không phải gạch, đá, hay vật liệu xây dựng) chứng nghiệm phước báu, Đạo, Quả và Niết Bàn.

“Không còn thu được gì nữa từ cái tháp xây dở của hai con. Mãi lo âu và bận lòng vì nó là dính mắc vào nó, mặc dù vật mà hai con dính mắc vào là nguồn tạo phước báu. Sự dính mắc bản thân nó là trạng thái tâm bất thiện. Hậu quả của nó là ghìm chặt hai con, thay vì để hai con tái sanh trong cảnh giới thích hợp để thọ hưởng quả lành của phước báu đã tạo. Nếu con chú tâm vào phước báu đã thành đạt do xây cất tháp, thay vì vào chính cái tháp, giờ đây hai con đã tái sanh tốt đẹp, vì đó là bản chất tự nhiên của phước báu. Phước báu không có thời gian và không biến đổi. Chính các con sai lầm là dính mắc vào những gì đáng lẽ phải bỏ lại. Lòng tiếc nuối và lo âu của hai con vô ích vì là điều không thể.

“Phước báu của hai con có đủ để tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp hơn nếu không bị lòng luyến ái làm chậm trễ. Nay đã đến lúc thay đổi trạng thái tâm và tái sanh vào cảnh giới thích hợp. Hãy chú tâm vào hiện tại, phước báu đích thực vì sự tiến bộ của mình. Thật đáng tiếc vì hai con đã tạo nghiệp lành để tiến bộ rồi lại làm chậm trễ bước tiến vì dính mắc vào gạch và đá. Điều ấy đã trì hoãn và gây chướng ngại cho bước tiến của hai con bao lâu nay. Hãy để nó ra khỏi tâm trí các con rồi chẳng bao lâu hai con sẽ tự do. Bất luận cảnh giới nào mà hai con sẽ sanh vào cũng đều do oai lực của phước báu mà hai con đã tạo.”

Rồi Ngài Acharn giải thích cho hai chị em về ngũ giới và lợi ích của trì giới. “Thứ nhất, tất cả chúng sanh đều có giá trị và ý nghĩa của riêng mình. Không nên làm gì gây tổn hại hay tiêu diệt giá trị và ý nghĩa ấy, vì bất thiện pháp chắc chắn sẽ quay trở về người hành động. Thứ nhì, vật sở hữu của một người thật vô giá đối với người ấy mặc dù trông hình như không có giá trị gì đối với người khác. Bất luận cố gắng nào bằng bất cứ cách nào nhằm tước đoạt chủ quyền của họ chắc chắn sẽ tạo nên bất thiện tâm, đưa đến đấu tranh để bảo vệ quyền làm chủ. Người có trí tuệ sẽ không làm điều ấy. Thứ ba, vợ hay con trai hay con gái của một người là con ngươi của mắt họ. Ta phải tôn trọng tình cảm ấy. Gạ gẫm phỉnh lừa những người ấy giống như móc mắt của họ. Thứ tư, nói lời dối trá là phản bội lòng tin cậy nơi người nói. Không có ai, thậm chí (người nói dối) hay một con thú mà lại niềm nở đón mừng sự dối trá cả. Điều này cần phải tránh. Thứ năm là rượu, về bản chất là một chất độc có thể làm cho người say mất trí, không thể tự kiểm soát. Người không muốn mất trí và suy kiệt sức khỏe, cả sức khỏe thể chất lẫn tinh thần, nên tránh rượu.

Lợi ích của phẩm hạnh nghiêm trì ngũ giới như sau:

1. được mạnh khỏe và sống lâu; 2. an toàn về mặt tài chính; 3. có đời sống gia đình điều hòa và hạnh phúc; 4. lúc nào cũng chân thật và đáng tin cậy dưới mắt của người khác, được trời và người ngưỡng mộ, tín nhiệm, yêu quý và không gây tổn hại cho mình hay cho ai khác; 5. được trang bị đầy đủ trí tuệ và không mất trí.

Ngài nói: “Người nghiêm chỉnh trì giới gieo trồng hạt giống hạnh phúc và vô hại cho người và thú. Người ấy không bị nghi ngờ. Người ấy không bạo động vì lúc nào cũng xem cảm giác của người như của chính mình. Người nghiêm chỉnh và thành thật trì giới được giới và Giáo Pháp nâng đỡ, chắc chắn sẽ vào được cảnh giới nhàn lạc sau khi lìa bỏ cảnh này. Hai con nên nhớ nằm lòng điều này, và không bao lâu nữa hai con sẽ thọ hưởng những gì thuộc về của mình, do phước báu mà chính mình đã tạo ra.”


^^^


94. Tai hại của tâm luyến ái 


Khi thời thuyết giảng chấm dứt hai chịa em lấy làm hoan hỷ và xin Ngài ban Ngũ giới. Theo lời thỉnh cầu, Ngài ban giới, hai vị thọ giới, và giã từ Ngài rỗi bỗng nhiên biến mất. Nhờ phước báu phát tâm bố thí và giữ giới trong sạch hai vị tái sanh vào cảnh trời gọi là Tāvatiṁsa (Tam Thập Tam Thiên), về sau thỉnh thoảng trở lại nghe giảng Pháp và bày tỏ lòng tri ân về sự những lời dạy hữu ích của Ngài. Họ nói, nhờ những lời dạy của Ngài mà họ thoát khỏi sự dính mắc của chính mình, vốn níu chặt họ một cách vô dụng vào cái tháp xây dở. Giờ đây họ đã biết mối nguy hại của dính mắc trong việc phát triển tâm. Nó trì hoãn tiến bộ của một người và cản ngăn, không để người ấy trải nghiệm hạnh phúc thanh bình an lạc đáng ra họ phải được hưởng.

Rồi Ngài giải thích thái độ tinh thần như vậy là chướng ngại to lớn thế nào cho sự tiến bộ. Khi cơ thể vật chất tan rã, bậc thiện trí phải thận trọng canh chừng cái tâm của mình, hơn là để ý đến thân hay cái gì khác. Nếu không vậy, tâm sẽ bị những tư tưởng dính mắc nhấn chìm. Khó chịu hay sân hận (một sắc thái khác của dính mắc hay ham muốn) chỉ là ngọn lửa tự thiêu đốt mình, và trong những khoảnh khắc quan trọng có thể kéo lôi con người vào khổ cảnh như địa ngục, ngạ quỷ hay cảnh thú. Đó là những cảnh giới khốn khổ rất đáng sợ. Vì thế, con người nên rèn luyện tâm trong khi còn ở trong hoàn cảnh có thể làm được, để có thể hiểu được hoạt động của tâm mình, khi còn có thời gian để tự sửa chữa hay tự cải thiện. Đến lúc nguy kịch, khi cơ thể vật chất sắp rã tan, cái tâm, nhờ đã được rèn luyện và chuẩn bị sẵn sàng sẽ có thể tự tách rời ra khỏi tình trạng đau khổ ít nhất là ở một mức độ nào đó. Đến mức cao độ cùng tột, tâm có thể là người quan sát tuyệt đối biệt lập, không dính líu đến những gì tốt và xấu của thế gian. Đó là pháp hành cao thượng hơn tất cả, tối thượng và không pháp nào sánh bằng.

Bậc thiện trí, nhận thức được trạng thái hay điều kiện của tâm là điều tối quan trọng trong Tam Giới, lúc nào cũng chịu khó luyện tâm và đồng thời khuyến khích người khác làm như mình. Chính cái tâm thọ hưởng hay gánh chịu quả của nghiệp, chứng nghiệm hạnh phúc hay đau khổ, tạo nên lãi hay lỗ, tái sanh hay chết vào những cảnh giới an lạc hay khốn cùng. Như vậy điều tối quan trọng là con người đối xử, rèn luyện, và canh phòng tâm của mình một cách đúng cách trong hiện tại và trong tương lai.

Hai chị em, giờ đây là hai vị trời trong cảnh Tāvatiṁsa (Tam Thập Tam Thiên), lấy làm hoan hỷ với lời dạy, nói rằng mình chưa bao giờ được nghe Giáo Pháp như thế. Sau đó họ bái từ, nhiễu ba vòng quanh Ngài Acharn, lui gót cho đến khi ra ngoài rồi bay bổng lên không trung như một cụm bông gòn trong gió.


^^^


95. Linh ảnh ba con voi 


Một câu chuyện đáng chú ý khác có liên quan đến linh ảnh trong khi tọa thiền mà Ngài thấy khi lưu ngụ trong một vùng rừng núi xa xôi của tỉnh Chiengmai. Vào khoảng ba giờ sáng, không gian tuyệt đối yên lặng và cơ thể an tĩnh, thanh bình. Ngài tỉnh giấc và quán chiếu về Giáo Pháp một lúc đến khi tâm cảm thấy muốn nghỉ ngơi hơn là quán chiếu. Khi đó Ngài cho phép tâm rút vào tầng sâu nhất của định và nghỉ khoảng hai tiếng. Sau đó, tâm rút ra một phần và lưu ở tầng định thứ nhì, nơi đây Ngài thấy một linh ảnh.

Trong linh ảnh này, một con voi rất to lớn đi đến gần Ngài và quỳ xuống như tỏ ý muốn thỉnh Ngài trèo lên lưng. Ngài liền trèo lên lưng voi, và lúc ấy xuất hiện hai vị tỳ khưu trẻ tuổi, mỗi vị cưỡi một con voi cũng to lớn nhưng hơi nhỏ hơn con voi của Ngài đôi chút, cả ba con voi đều đẹp như nhau, dáng điệu hiền lành và oai nghi trông như voi của vua. Cả ba con voi đều hiểu ý của người cưỡi.

Khi hai con kia đến gần thì voi của Ngài Acharn cưỡi dẫn đầu đi về hướng núi cách đó khoảng một cây số. Sâu trong tâm thức của Ngài, dường như Ngài đang dẫn hai vị tỳ khưu trẻ tuổi thoát ra khỏi Tam Giới (giả định, tương đối), không bao giờ trở lại nữa. Khi đến chân núi, voi chở ba vị đến một hang động trên đỉnh một ngọn núi nhỏ, nằm trong một dãy núi lớn. Khi đến hang, Ngài cưỡi voi vào rồi quay lại đối diện cửa hang, trong khi đó hai con voi kia theo sau, tiến lại và đối diện với Ngài, lưng của chúng quay về phía cửa hang.

Khi đó Ngài Acharn nói với hai vị đó như giã từ: “Đây là khoảnh khắc cuối cùng khi trở thành và sanh ra của thầy sẽ tuyệt đối tách rời khỏi thế gian phàm tục. Nó sắp chấm dứt nơi đây và sẽ không bao giờ còn trở lại thế giới của sanh và tử nữa. Thầy muốn hai sư trở về hoàn tất việc tự trau dồi, bởi vì hai sư sẽ sớm theo chân ta và ra đi như ta hiện nay. Việc một chúng sanh thoát được ra khỏi thế gian đau khổ và đầy chướng ngại này không dễ như đi dự một cuộc vui giải trí đâu. Nó đi ngược dòng của ái dục nhiều tới mức cần phải có lòng nhiệt thành trong sạch kèm thêm sự hỗ trợ của việc xả ly khỏi thân. Đó là những điều kiện thiết yếu để vượt qua cảnh giới sanh tử triền miên, và như vậy mới vượt qua được những nấm mồ.” (13)

“Lần ra đi này của ta không phải là để tan rã mà để giải thoát khỏi các uẩn, dứt bỏ tất cả các dính mắc vào tham ái và thoát ly mọi phiền lụy lo âu. Cũng giống như một tù nhân thoát ra khỏi cảnh ngục tù không chút luyến tiếc khi xa lìa ngục thất của các uẩn mà phần đông chúng sanh không muốn giã từ. Như vậy, không nên buồn rầu sầu muộn khi ta ra đi, bởi vì làm như thế chỉ tăng khổ đau vô ích.”

Khi chấm dứt những lời dạy, Ngài nói hai vị tỳ khưu cưỡi voi đi trở về. Suốt quãng thời gian đó, voi của hai vị đứng yên có vẻ như cũng rất sầu muộn. Chúng trông giống voi thật ngoài đời chứ không phải như voi thấy trong linh ảnh khi hành thiền. Hai con voi lùi ra đến cửa hang, quay đuôi về phía Ngài Acharn, nhưng rồi lại quay đầu trở lại về hướng Ngài trông rất long trọng. Khi đó con voi của Ngài rút vào phía trong hang cho đến lúc nửa thân của nó ở phía trong vách tường đá. Lúc đó Ngài xuất thiền hoàn toàn.

Theo lời giải thích của Ngài Acharn, linh ảnh này vừa có tính tiên tri, vừa có ý nghĩa tượng trưng. Ngài tiên đoán rằng sau khi mình viên tịch, sẽ có hai vị tỳ khưu trẻ tuối chứng ngộ như mình, nhưng không đề cập đến tên của vị nào. Về phương diện tượng trưng, thiền định và thiền tuệ hữu ích đối với một vị A La Hán cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, cả hai cùng là phương tiện để dập tắt khổ đau trong khi sắc uẩn và danh uẩn còn chằng chịt hoạt động với nhau. Chúng cùng hoạt động cho đến khi uẩn và sự giải thoát tách rời khỏi nhau trong quá trình gọi là chết, sau đó thiền định và thiền tuệ chấm dứt hoạt động và tồn tại và đồng thời chấm dứt khỏi thế gian.

Ngài Acharn nói rằng Ngài không sợ khi con voi mà Ngài đang ngồi trên lưng lui vào thành đá của hang động và cứ để cho voi tự nhiên thực hiện nhiệm vụ của nó như nó thấy là phù hợp. Điều quan trọng là vào khoảng thời gian Ngài nhập diệt, trước đó hoặc sau đó không lâu, sẽ có hai vị tỳ khưu trẻ tuổi chứng ngộ thành quả giống như Ngài.

Điểm kỳ lạ là trong linh ảnh Ngài dạy hai sư trẻ tuổi trước tiên hãy trở về cố gắng tự phát triển tâm linh trước. Có vẻ như Ngài thật sự ra đi ngay vào lúc bấy giờ. Đối với người viết – bất hạnh thay! – Ngài không hề thổ lộ tên của hai vị tỳ khưu ấy, dù có được hỏi. Từ lúc nghe được câu chuyện linh ảnh cho đến khi viên tịch, người viết lúc nào cũng mong mỏi muốn biết tên của hai vị tỳ khưu nên đã quan sát tỉ mỉ các vị đệ tử của Ngài để đoán xem hai vị ấy là ai, nên đã bỏ qua mất lỗi của chính mình và quên rằng người đã thành tựu mức độ giác ngộ như thế, không giống người thế gian, không bao giờ tự khoe khoang và chắc chắn là rất sáng suốt và tự hy sinh ở mức cao nhất. Nếu không vậy, ắt không bao giờ có thể thành tựu như vậy. Làm nạn nhân cho sự khoe khoang là để cho bậc thiện trí thương hại đồng thời để người ngu chỉ trích, và người nhẹ dạ phấn khích.

__________

(13). Như Ngài Acharn tác giả nói ở một nơi khác, “Sợ chết thì sẽ chết trở lại.”


^^^


96. Giúp đỡ chúng sanh trong cảnh ngạ quỷ và địa ngục 


Một phần không thể tách rời trong đời sống của Ngài Acharn là giúp đỡ chúng sanh vô hình trong những cảnh giới khác nhau, đặc biệt là khi lưu ngụ nơi rừng sâu. Nơi lưu ngụ càng xa xôi hoang vắng và ẩn dật thì số khách càng nhiều và càng thường xuyên hơn. Họ đến với Ngài để nghe Ngài thuyết Pháp, để xin được giải đáp thắc mắc, hoặc để cầu cứu, xin Ngài giúp ra khỏi hiểm họa và đau khổ. Nhóm xin cứu giúp khỏi đau khổ bao gồm ngạ quỷ đang mong chờ nhận được phước báu mà bà con họ hàng mình hồi hướng (14). Những ngạ quỷ và những chúng sanh trong khổ cảnh này đã mong chờ từ lâu để được thọ hưởng quả phúc mà thân bằng quyến thuộc đã tạo và hồi hướng đến mình để ít nhất có thể phần nào dịu bớt nỗi khổ đau, vì họ đã phải chịu khổ lâu lắm rồi, không thể tính theo lịch của trái đất. Thời gian mà họ còn phải chịu đau khổ trong tương lai cũng vô cùng tận, không thể đo lường.

Những chúng sanh khổ đau cùng cực mà có thể đến với Ngài thường kể về số phận bất hạnh của mình và xin giúp báo tin cho gia đình, mong rằng họ hàng quyến thuộc sẽ nghĩ đến họ và tạo phước hồi hướng. Nhưng khi Ngài Acharn hỏi tên của những người họ hàng thì những tên mà họ nêu ra hoàn toàn xa lạ, đối với Ngài hay với bất kỳ ai vào thời đó. Họ đã chịu đau khổ hàng trăm, hàng ngàn năm trong những cảnh giới ấy (thời gian tính theo những cảnh ấy), thời gian ấy không thể tính theo thời gian trên trái đất. Và thậm chí sau khi tình trạng đau khổ đã được suy giảm phần nào và ở cõi ít đau khổ hơn, họ vẫn còn ở trong vị thế không tốt đẹp gì hơn lắm vì đã ở rất lâu trong tình trạng ấy nên không thể lần ra họ hàng hay con cháu ở vùng đó. Những trường hợp như vậy rất phổ biến, họ như những con vật hoang vô chủ chờ người cứu giúp.

Cũng có trường hợp những người chết không lâu, có thể giúp được. Danh tính người thân hay con cháu được biết và nơi chốn mà những người còn sống tìm ra được. Trong hoàn cảnh như thế, Ngài Acharn tiếp xúc với họ hàng thân thuộc và khuyên họ mỗi lần tạo phước nên nhớ hồi hướng đến họ hàng đã quá vãng. Tuy nhiên, có vài trường hợp người chết ở vào vị thế có thể thọ hưởng phước báu hồi hướng một cách chung chung, không cần phải là họ hàng (trường hợp này không cần nêu đích danh). Ngài Acharn thì đã tự tạo nguyên tắc hồi hướng đến tất cả các chúng sanh. Công đức hồi hướng này tới được tất cả những chúng sanh đau khổ, ngoại trừ những âm linh chỉ có thể thọ hưởng quả phúc mà thân nhân hồi hướng đến họ.

Ngài Acharn nói rằng có rất nhiều hạng ngạ quỷ và chúng sanh khốn khổ không thể kể ra hết loại và số lượng các chúng sanh này. Họ đến quây quanh Ngài và xin Ngài cứu giúp đông hơn những chúng sanh vô hình khác. Nói cách khác, như trong ngôn ngữ Thái có thành ngữ “thở bằng lỗ mũi của người khác” (giống như người ăn xin). Đó là hậu quả của những người không hề tạo thiện nghiệp trong khi còn sống ở cảnh người. Đây là một bài học chỉ rõ tầm quan trọng của hành động tạo phước, dưới hình thức bố thí hay một hình thức nào khác. Tất cả chúng ta đều là những lữ khách thênh thang bất định, xuyên qua những cảnh giới sanh tồn khác nhau trong vòng tái sanh và tái tử. Ta nên tự mình chuẩn bị một hình thức dự trữ cho tương lai của mình đề phòng những lúc khẩn cấp, vì chính chúng ta sẽ thừa kế nghiệp quả của chính ta. Tái sanh vào một cảnh giới thấp hay cao, hưởng đau khổ hay hạnh phúc thế nào là tùy thuộc nơi nghiệp đã tạo của chính mình. Đặt hy vọng hay tùy thuộc nơi sự giúp đỡ của ai khác cũng tựa hồ như thở bằng mũi của người khác.

Ngài Acharn có kinh nghiệm thâm sâu trong việc giao tiếp với chúng sanh trong những cảnh giới vô hình khác nhau. Ngài có thể giúp họ bằng nhiều phương cách (thuyết giảng Giáo Pháp, ban truyền những lời dạy, giải đáp những thắc mắc, hồi hướng công đức, tìm họ hàng hay con cháu của 197 những ngạ quỷ…), nhưng không tiết lộ hết những gì Ngài biết cho chư vị đệ tử. Chúng tôi không tránh khỏi rùng mình kinh sợ khi nghe thuật lại những câu chuyện về ngạ quỷ và những chúng sanh trong khổ cảnh. Kinh sợ hậu quả của nghiệp bất thiện chứ không phải kinh sợ chính các ngạ quỷ. Nếu con người có thể trông thấy tận mắt hậu quả của nghiệp bất thiện và nghiệp thiện như thấy một vật trước mắt, chắc chắn là sẽ kinh sợ và tránh xa nghiệp bất thiện, cũng giống như không ai dám bước vào lửa đỏ. Họ cũng sẽ khát khao muốn làm việc thiện vì thiện nghiệp có năng lực làm mát mẻ và đưa đến hạnh phúc. Được vậy, thế giới sẽ không đến nỗi rối loạn và khốn khổ như ngày nay.

__________

(14). Thọ hưởng phước báu của người khác tạo có nghĩa là được báo cho biết là có người làm phước và rồi hoan hỷ đánh giá cao việc làm phước ấy. Điều này có thể có được nhờ hai điều như kể trên, tức là được báo có người tạo phước, và khi đã biết rồi thì thật sự đề cao việc làm phước đó. Không phải chỉ có thể thọ hưởng những phước báu do thân quyến tạo, nhưng thông thường người tạo phước có khuynh hướng trước tiên nghĩ đến họ hàng và người thân trước. Như vậy, có thể trực tiếp nêu tên riêng cá nhân người quá vãng và quả phúc nào mình đã tạo. Phương thức hồi hướng như thế đến người có liên quan sẽ hiệu quả hơn.


^^^


97. Tiết lộ sự thật về cảnh trời và địa ngục 


Trong khi Ngài Acharn đang giải thích Giáo Pháp và những diễn biến xảy ra liên quan đến chúng sanh vô hình và những cảnh giới khác nhau, một vị Acharn đệ tử của Ngài có ý kiến như sau: “Bạch Ngài, rõ ràng là con người không ý thức được kết quả của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện vì không có khả năng thấy được cảnh giới của những chúng sanh vô hình ấy như Ngài, xin Ngài từ bi giải thích rộng rãi cho tất cả mọi người để họ có thể tin vào quả của nghiệp, vì xưa kia Đức Phật và chư vị Thánh đệ tử của Ngài cũng có giải thích. Bằng cách đó, mọi người sẽ biết quý trọng nỗ lực của Ngài như hàng đệ tử như chư vị Thánh đệ tử của Đức Phật.”

Ngài Acharn nói, “Nếu tiết lộ sự thật cho tất cả mọi người mà không phân biệt, người ta sẽ nói là ta điên. Người gợi ý này cho ta cũng bị cho là điên và các vị tỳ khưu đệ tử khác của ta cũng vậy. Giáo lý của Đạo Phật là của bậc thiện trí sáng suốt. Giáo Pháp này được ban truyền nhằm giúp người sáng suốt thực hành. Nói ra những sự thật (bí ẩn và khó chứng minh) cho tất cả mọi người ắt có hại nhiều hơn lợi. Có những sự thật hiển nhiên hơn mà nhiều lúc người ta còn không biết phải làm gì và không được làm gì trong những trường hợp, những phong tục tập quán khác nhau và thế nào là giá trị tốt tại những thời điểm khác nhau. Mặc dù Giáo Pháp là chân lý vượt ra ngoài thế gian, nhưng khi áp dụng vào đời sống, ta cần phải thận trọng để ý đến phong tục, tập quán, những khuynh hướng tư duy và những yếu tố khác của thế gian.

“Đức Phật là bậc Toàn Giác đã thông suốt các chân lý ấy trước hết, nhưng không phải lúc nào cũng nói hết cho tất cả mọi người một cách không 198 phân biệt. Phải thận trọng lưu tâm đến thời gian, hoàn cảnh và mức độ hiểu biết của người nghe. Phải nhớ rằng trí tuệ mà không được chánh niệm kiểm soát sẽ không thể đưa đến thành quả mong muốn, trái lại còn tạo kết quả thua thiệt, không mong muốn. Dĩ nhiên ta có thể bỏ qua những gì người khác nói, nhưng kết quả có hại vì thiếu chánh niệm cuối cùng sẽ quay trở về chính ta, và vì thế không nên xem thường. Những sự thật liên quan đến các câu chuyện ấy, dù có tuyệt vời thế nào, không nên coi nhẹ rồi kể lại làm cho người khác phấn khích. Chúng ta không nên ca tụng hay hãnh diện với cách tiếp cận Phật Giáo như vậy. Đức Phật khuyên dạy rằng lối hiểu biết chân chính phải đặt trên nền tảng trí tuệ. Nhờ cách tiếp cận như vậy mà Giáo Pháp của Đức Phật có thể được lưu truyền cho hậu thế. Giờ đây, nếu Sư có đủ một số tiền lớn để làm việc thiện hay bất thiện, Sư phải làm thế nào để giữ số tiền ấy và chính Sư được an toàn?”

“Con sẽ tận lực cố gắng sử dụng mọi khả năng để giữ gìn”, vị tỳ khưu trả lời.

“Sư sẽ sử dụng trí tuệ như thế nào để giữ an toàn cho chính Sư và số tiền?” Ngài Acharn hỏi.

“Con sẽ chia riêng một phần tiền để giúp đỡ kẻ khác, và giữ số tiền còn lại ở một nơi kín đáo, không để ai thấy hoặc biết con cất ở đâu.”

“Giờ thì trở về sự thật về chúng sanh vô hình. Nếu hiểu biết tất cả sự thật, ta phải dạy đại chúng như thế nào để có thể hữu ích cho mình và cho kẻ khác mà không có hậu quả tai hại?”

“Con sẽ hết sức thận trọng, cũng như con thận trọng giữ gìn số tiền của con”, vị tỳ khưu trả lời.

“Như vậy, Sư đã thấy quan điểm của ta. Mới lúc nãy Sư yêu cầu ta tiết lộ tất cả sự thật về những chúng sanh vô hình, không phân biệt người nghe, không nghĩ đến hậu quả tai hại có thể xảy ra. Sư có thấy là mình bất cẩn thế nào không? Sư thấy trên thế gian này hạng thông minh sáng suốt nhiều hơn số người ngu đần hay trái lại? Và hạng người nào có thể giữ gìn và bảo trì Giáo Pháp cho hậu thế?”

“Bạch Ngài, đây chính là lỗi của con”, vị tỳ khưu thưa. “Con muốn cho người khác cũng biết những sự thật phi thường mà trước đây con chưa bao giờ được nghe ai nói. Con nghĩ rằng những người khác cũng như con, sẽ lấy làm cảm kích. Con đã để cho niềm hân hoan cảm kích của mình kéo lôi đi mất. Con không ngừng lại để nghĩ xem có hậu quả tai hại nào có thể xảy đến không, hay số người trí nhiều hơn người ngu hay ngược lại. Giờ đây con đã biết rằng người ngu đông hơn người trí. Thí dụ như trong làng, có một số rất ít người hiểu biết những chân lý về đạo đức và Giáo Pháp. Phần còn lại không màng hiểu biết điều nào là thiện, điều nào là bất thiện, tại sao họ có mặt ở đây và họ sẽ đi về đâu. Họ chỉ muốn thỏa thích vui chơi và chỉ hoang phí thời giờ. Những ai có thể giữ gìn và bảo trì Giáo Pháp cho hậu thế phải là người có trí tuệ và sáng suốt. Điều này đúng cho cả công việc quốc gia cũng như Giáo Pháp. Tuy nhiên, số người còn lại sẽ thu hoạch được thành quả mà một số ít người đã gieo trồng.”

“Con phải biết rằng việc của Đạo Pháp tế nhị hơn nhiều việc điều hành một quốc gia. Nó đòi hỏi trí tuệ thâm sâu hơn, một loại trí tuệ không bao giờ áp dụng vào những mục tiêu phá hoại mà chỉ giúp phát triển thêm, tiến bộ thêm. Nói theo Bát Chánh Đạo, đó là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, là cái làm khuôn cho lời nói và hành động của con người.

“Chánh Định lúc nào cũng phải do Chánh Kiến nâng đỡ, hỗ trợ, nếu không, nó sẽ trở thành cái gọi là thiền “gốc cây khô” (không biết gì hết). Trí tuệ phải là nền tảng của thiền. Bất luận hiểu biết nào phát sanh trong tâm, hay bất luận điều gì mà tâm hiểu biết ở bên ngoài, hoặc những sự kiện hay hoàn cảnh ấy phải được quan sát và đánh giá – tất cả những điều ấy phải được phân tích, biện giải và cân nhắc bằng trí tuệ nhằm ngăn ngừa si mê.

“Có vô vàn kiến thức, cả bên trong lẫn bên ngoài, có thể biết được nhờ phát triển tâm định. Điều này đặc biệt đúng đối với trường hợp những người có khuynh hướng mục kiến và quan sát những diễn biến khác nhau. Không thể ngăn một cái tâm như thế sử dụng chính khả năng của nó. Đây chính là nơi cần đến trí tuệ để sàng lọc và lựa chọn, loại bỏ một vài điều và giữ lại những điều khác. Kể cả định cũng không thể sử dụng một cách hữu hiệu nếu không có trí tuệ, bởi vì hành giả vẫn còn bị những cơn vui buồn xáo trộn. Trừ khi có trí tuệ cương quyết và dũng mãnh đối phó, những ảnh hưởng như vậy sẽ ngoan cố duy trì và khuấy động tâm, còn loại trừ được nó thì sẽ thọ hưởng tình trạng an lành, hạnh phúc và tiến bộ. Do đó, cần có trí tuệ trong từng giai đoạn tiến bộ trong tiến trình trau dồi và phát triển tâm.

“Những vị đã “xuất gia” để tìm trí tuệ và đức hạnh mà thế gian mong ước (nhưng không thể tìm được), những vị ấy không thể không biết những trò lừa đảo của ô nhiễm của chính mình. Họ phải khám phá được những mánh khóe ấy bằng cách phát triển trí tuệ của mình. Lẽ dĩ nhiên là người không được bảo vệ (chống lại những cuộc tấn công của quân địch) ắt không chắc chắn được an toàn. Người xuất gia có sự bảo vệ của Giáo Pháp và Giới Luật, và vũ khí để tự vệ là niệm và tuệ. Niệm và Tuệ trong mọi cử động sẽ cho các vị ấy sự an toàn trong mỗi khoảnh khắc. Như vậy, mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm lúc nào cũng phải đặt trên nền tảng của niệm và tuệ, chỉ có niệm và tuệ mới có thể đảm bảo sự an toàn này.

“Điều này cũng giống như các đệ tử của ta ở đây tận lực chiến đấu hướng đến trạng thái Chấm Dứt Đau Khổ, luôn có niệm và tuệ dẫn lối. Như vậy có nghĩa là họ phải tích cực và hăng hái làm những gì phải làm để xứng danh Giáo Pháp và Giới Luật. Chứ không được say mê chìm đắm hay lún sâu trong lợi dưỡng. Cần hiểu rằng nhiệm vụ của vị tỳ khưu là cao cả hơn tất cả các nhiệm vụ khác, đó là cắt đứt vòng luân hồi sanh tử.

“Trên thế gian này, không có nhiệm vụ nào đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn là nhiệm vụ giải thoát tâm ra khỏi vòng luẩn quẩn ba lớp (của ô nhiễm, nghiệp và quả của nghiệp lại tạo ô nhiễm). Cần có sự hiến dâng trên mọi phương diện, kể cả đời mình, vốn đã cam kết tinh tấn vô điều kiện chứ không phải như các nhiệm vụ khác. Chỉ nhờ mức độ chuyên cần tinh tấn và nhiệt tâm mới có thể chứng ngộ Giáo Pháp phi thường, chưa từng biết đến và không bao giờ dám mơ ước. Các phương pháp khác khó có thể đưa đến thành quả như vậy. Đối với những ai có nguyện vọng hoàn toàn đặt xuống gánh nặng đau khổ, đức hạnh chuyên cần nỗ lực phải lên đến mức có thể chấp nhận thử thách sống hay chết. Trong trường hợp của thầy, trước khi được gọi là Acharn dạy dỗ người khác như thế này, thầy không bao giờ nghĩ rằng mình có thể sống sót qua được những thử thách gay go gặp phải. Mục đích Giải thoát luôn chiến thắng sự đe dọa của cái chết. Mọi nỗ lực đều hướng về mục tiêu vượt qua khỏi sự sống, hay chính xác hơn, vượt khỏi cái chết với tâm làm vị chỉ huy tối cao truyền lệnh tuyệt đối không bao giờ được tháo lui, dù thấy thân này tan rã ngay trước mắt mình. Trong quá khứ đã vô số lần thân này tan rã. Nếu lần này quá trình này lặp lại thêm một lần nữa thì cũng không có nghĩa lý gì. Như vậy, lần này cứ để cho lợi thêm để chứng ngộ Giáo Pháp của Đức Phật. Không cần chứng ngộ nào nữa cả.

“Điều mà ta muốn biết chỉ là hiểu biết có thể giúp ta thoát ra khỏi vòng sanh tử. Sự tinh tấn đặt nền tảng ý chí cương quyết này giống như giàn máy liên tục hoạt động trong một cơ xưởng. Nó hoạt động với niệm và tuệ vững chắc như bánh xe của Giáo Pháp ngày đêm không ngừng quay trong cuộc chiến đấu chống ô nhiễm. Trong những giờ đi, tuyệt đối không có khoảnh khắc nào giảm tinh tấn. Sau thời gian ngủ nghỉ, cuộc chiến bắt đầu trở lại với sự phối hợp năng lực của đức tin, niệm (bao gồm định), tuệ và tinh tấn, tất cả hợp lực trong cuộc chiến đấu dai dẳng chống lại ô nhiễm cũng luôn thu góp những lực lượng của chúng, sử dụng tất cả những mánh khóe gian manh, xảo quyệt. Đến giai đoạn cuối cùng, cuộc chiến chấm dứt với những ô nhiễm đã từ lâu thống trị tâm giờ đây bị đánh bại hoàn toàn. Chúng bị nhổ tận gốc và hoàn toàn tuyệt diệt khỏi tâm, không còn cơ hội ngóc đầu trở lại để lén lút tấn công từ phía sau và gây phiền nhiễu. Tuy nhiên, thân vẫn như vậy, với đời sống không còn dơ bẩn.


^^^


98. Bơi trên đất liền và máu chảy đầy ngực 


“Phần thưởng của cuộc chiến dai dẳng này không phải là gì khác hơn chính tâm, vốn có thể ví với một thiếu nữ kiều diễm. Một khi được Giáo Pháp chinh phục, nó trở thành “tâm bất tử” hay “Pháp bất diệt.” Ai khám phá ra nó đều trở thành tối thượng và bất diệt. Nhưng Pháp nằm phía bên kia của cái chết. Ai còn sợ chết và còn thích được sanh sẽ không bao giờ chứng ngộ được Pháp. Người như thế quá tự tin vào sự sống, không bao giờ cố gắng hành thiện khi còn ở vào vị trí có thể làm được. Tình trạng quá tự tin sẽ đưa người ấy vào vô số lần chết, với vô lượng nước mắt phiền muộn, khổ đau. Không thể đoán được còn bị giam cầm như vậy bao lâu nữa (khi còn chưa thể đối diện và hiểu biết cái chết theo cách của Pháp).

Người Phật tử theo pháp hành phải hiểu biết như vậy để quyết định cho mình có nên đối diện nhìn thẳng vào cái chết bằng Giáo Pháp như nơi nương tựa của mình hay không, hay lẩn trốn không dám nghĩ đến và một lần nữa chịu khổ đau vì tái sanh cùng với những tình trạng khốn cùng dính liền với nó. Lời cảnh báo này nhắn nhủ họ nên thận trọng suy nghĩ bởi vì không có lý do gì phải chìm đắm trong đau khổ và hoang phí từng hơi thở. Một thái độ tinh thần như vậy chỉ gây trì hoãn và hối tiếc. Trong mỗi khoảnh khắc của đời sống, chúng ta bị ô nhiễm kéo lôi, làm cho ta “bơi trên đất liền” và vì vậy máu chảy đầy ngực (15). Nói cách khác, ta bị bắt buộc phải vác gánh nặng đau khổ trong tâm từ rất lâu. Cách đặt gánh nặng bất công này xuống cũng nằm bên trong chính tâm ta, nó phải tự cải thiện và đổi mới bằng cách phối hợp những năng lực tín, tấn, niệm, và tuệ. Nhất là đối với tỳ khưu hay người thực hành Phật Pháp, không nên quá tự tin vào sự sống, vào tuổi trẻ và sức khỏe.

“Đến phân tích cuối cùng, cái làm con người đi sai lạc hay dẫn vào con đường chân chính không là gì khác ngoài chính tâm mình. Như vậy, trên phương diện này, không nên đặt hy vọng của mình vào nguồn lực bên ngoài. Trái lại, phải hướng cái nhìn vào bên trong và quan sát một cách đầy đủ xem guồng máy thân, khẩu, ý của mình đang tạo ra những loại công việc nào. Nó có tăng mức độ của đau khổ và quả của nó hay đang tạo ra những chất kháng độc của Giáo Pháp nhằm giải trừ tình trạng si mê và dính mắc vào vòng sanh tử? Mọi Phật tử phải thực hành việc quán chiếu nội tâm này một cách thường xuyên để vững chắc gìn giữ mức tiến bộ và phát triển.”

Trên đây là trả lời của Ngài Acharn nhằm giải đáp yêu cầu của một vị đệ tử, xin Ngài tuyên bố sự thật về những cảnh giới và những chúng sanh vô hình cho tất cả mọi người. Có thể bản chất của mình hơi quá mộc mạc thô sơ nhưng người viết thật tình ưa thích loại thuyết giảng thế này, nó dễ thuyết phục tâm hơn. Tâm ta vẫn cần phải có năng lực mạnh mẽ khuấy động và nâng lên đến mức hành động. Nếu Ngài Acharn tự ý khởi thuyết, ắt thời Pháp sẽ có vẻ êm dịu và trôi chảy nhẹ nhàng hơn, nhưng không xúc động hay tuyệt vời bằng, mặc dù Giáo Pháp mà Ngài dạy lúc nào cũng thâm sâu và huyền diệu. Nhưng nếu có vị đệ tử nào làm gì say quấy hay có ý kiến lầm lạc thì phong thái lời dạy của Ngài đổi hẳn, trở nên cứng rắn, mạnh mẽ, sống động và đầy thử thách. Những lời dạy như thế khích lệ mạnh mẽ hàng đệ tử tinh tấn thêm lên. Vài vị đệ tử biết như vậy, thỉnh thoảng nêu lên những câu hỏi để tiếp thêm sức lực cho mình.

(15). Đây là lối nói tượng trưng của người Thái, hàm ý đề cập đến những người ham muốn điều không thể được như sợ phải đối diện với thực tế, kháng cự với những gì không thể kháng cự,…Tất cả những thái độ tinh thần tương tự và cố gắng tiếp theo của nó có hai điều hại. Điều đầu tiên (thái độ tinh thần sai lầm) giống như bơi lội trên đất liền và điểm thứ nhì (cố gắng tiếp theo) giống như chảy máu đầy ngực. Cả hai đều làm tăng trưởng chứ không phải giảm bớt khổ đau.


^^^


99. Hang động thánh thiện trên đỉnh núi 


Lần nọ, trong cuộc đi thênh thang bất định tại một vùng hoang vu, Ngài tạm trú trong một hang động ở Chiengdao cùng với ba hay bốn đệ tử. Vào đêm thứ ba, Ngài nói với họ rằng, trong khi ngồi thiền, Ngài thấy một hang động rộng lớn, gần đỉnh núi rất cao và dốc. Trong quá khứ xa xôi, nơi đây là chỗ lưu ngụ của vài vị Phật Độc Giác (Pacceka Buddha), nhưng giờ đây thì hầu như không thể lên được vì rất khó lên và không có xóm làng gần đấy để trì bình khất thực. Ngài bảo các vị đệ tử hãy lên đó chiêm ngưỡng, nhưng Ngài dặn nên đem đủ thức ăn cho vài ngày.

Không có đường mòn dẫn đến hang đó. Họ phải trèo một cách khó nhọc qua những tảng đá nhọn và vách đá để lên đỉnh núi, vì cái hang nằm ngay phía dưới đỉnh núi. Các vị tỳ khưu và những người cư sỹ (giúp khuân vác thức ăn và đồ dùng cần thiết) vâng theo lệnh Ngài, tận lực cố gắng và lên được đến hang. Họ nhận thấy cái hang rất rộng và đẹp, hùng tráng trang nghiêm giữa môi trường tiện nghi dễ chịu. Chư vị tỳ khưu muốn ở lại hành thiền nhưng không thể được vì cái hang nằm rất cao trên đỉnh núi, đường lên dốc dựng đứng và rất nguy hiểm. Lại nữa, xóm làng gần nhất cũng nằm ở quá xa để đi khất thực. Sau khi ở lại đó vài ngày, vật thực và đồ dùng đã gần hết, họ phải xuống núi trở về.

Ngài Acharn hỏi họ hang có đẹp không. Ngài đã thấy trong linh ảnh nhưng muốn chính họ tận mắt thưởng ngoạn. Rồi Ngài nói tiếp rằng có nhiều việc phi thường trên hòn núi ấy. Cái hang trên đỉnh núi được chư thiên thường xuyên canh phòng. Người nào lên đó mà không biết tỏ lòng tôn kính chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Ngài nói Ngài quên cho họ biết rằng trong khi lên đó, phải tự kiểm soát chặt chẽ vì một thái độ kém đứng đắn sẽ gặp sự phẫn nộ của những chúng sanh canh gác vô hình. Những gì Ngài nói với họ giống như đã tận mắt nhìn thấy. Điều này nói lên rằng năng lực thần thông hay nhãn thông của Ngài quả thật rõ ràng và chính xác.

Lời Ngài khuyên các tỳ khưu nên thận trọng tự kiểm soát không phải chỉ riêng ở hang đó mà ở các nơi khác trong rừng cũng vậy. Lẽ dĩ nhiên là chư thiên ở những nơi ấy cũng thích sạch sẽ và trật tự, và thích những nghi thức lễ phép của người có văn hóa. Khi các vị trời thấy các vật dụng cần thiết của nhà sư mà để bừa bãi, mất trật tự hay khi nằm ngủ mà không trang nghiêm, thí dụ như nằm sải chân hay nói lảm nhảm trong khi ngủ, các vị than phiền với Ngài Acharn, nói rằng nhà sư có một địa vị cao hơn người thường và như vậy phải tự kiểm soát chặt chẽ hơn khi thức cũng như trong lúc ngủ để có thể làm gương cho trời và người. Nhà sư mà hạ mình, có lối cư xử như người cư sỹ thì mất hết phẩm giá trang nghiêm. Các vị trời nói rằng đây không phải là vạch lá tìm sâu, tìm lỗi người với ác ý mà có thiện tâm muốn thấy chư vị tỳ khưu xứng đáng với địa vị và phẩm giá của mình.

Do vậy khi sống ẩn dật trong rừng sâu, Ngài luôn luôn nhắc nhở hàng đệ tử nên giữ gìn sạch sẽ và sắp xếp có trật tự các vật dụng cần thiết. Phòng vệ sinh cũng phải xây cất ở một nơi thích hợp, không nên quá gần hướng về nơi chư thiên cư ngụ bởi vì như vậy các Ngài có thể phiền lòng và gây tổn tại cho chư tỳ khưu. Mỗi khi có vị đệ tử nào có khả năng truyền thông giao cảm với những chúng sanh như Ngài thì Ngài Acharn không cần cảnh báo bởi vì vị này đã có thể hiểu biết phải giữ cách cư xử thế nào để không làm phiền những chúng sanh vô hình. Có khá đông các vị đệ tử của Ngài có khả năng hiểu biết những điều ấy nhưng các vị này được gọi là tỳ khưu rừng, không tiết lộ cho người khác biết khả năng của mình vì chắc chắn là sẽ bị “các nhà học giả hiện đại” cười chê nhạo báng. Chỉ trong những cuộc đàm thoại không chính thức giữa những người bạn thân và đệ tử mới biết được khả năng và đạo quả mà các Ngài đã thành tựu.


^^^


100. Vị long vương tìm lỗi 


Tại núi Chiengdao có một hang khác. Hang này không phải cái hang dài mà khách du lịch thường tới thăm (cũng không phải cái hang trên đỉnh núi). Nó nằm trên cao hơn cái hang du khách thường tới, và nơi đây Ngài Acharn lưu ngụ một thời gian. Đây cũng là nơi một vị long vương ở từ lâu. Vị này rất khó tính và ưa bắt lỗi, hầu như không thể thọ hưởng những quả phúc mà Ngài Acharn hồi hướng. Có lẽ vị này có ác cảm với một vị tỳ khưu nào từ lâu và vì thế lúc nào cũng nuôi dưỡng thái độ tìm lỗi hiểm độc đối với Ngài Acharn cả ngày lẫn đêm, kể cả khi Ngài ngủ.

Ban đêm, khi Ngài Acharn đi kinh hành chân mang dép, vị long vương nói: “Tại sao vị đạo sỹ ẩn dật này đi mãi như ngựa đua vậy? Vị này phải thận trọng tự kiểm soát chặt chẽ hơn. Ông ta không biết rằng tiếng dép của ông kêu to như sấm và làm phiền ta rất nhiều sao?” Mặc dù Ngài Acharn đi với sự kiểm soát tốt nhất rồi nhưng vẫn gây tiếng động nhỏ nhất có thể.

Nghe vị long vương than phiền, Ngài càng thận trọng, tự kiểm soát càng chặt chẽ hơn, đi êm hơn nữa, nhưng rồi vị long vương vẫn than phiền, nói: “Ông này đang làm gì đó? Có phải là thợ săn đang bắn con chim không?”

Có một lần Ngài Acharn trượt chân vấp phải một hòn đá, vị long vương liền lầm bầm than phiền: “Cái ông đạo sỹ này là gì? Ông đi như đang trình diễn một màn thoát y vũ!”

Đôi khi Ngài Acharn sắp xếp mấy viên đá nhỏ dài theo đường kinh hành thì vị long vương càu nhàu than phiền: “Tại sao vị đạo sỹ này phải đổi dời mãi, hết món này đến món kia? Ông không biết rằng những tiếng động ấy làm cho cái đầu ta muốn bể ra hay sao?”

Thậm chí trong khi ngủ động đậy tay chân một chút, lúc thức dậy Ngài cũng biết vị long vương phiền trách Ngài như thường, than Ngài thở mạnh, ngáy hay gì khác.

Mỗi khi Ngài Acharn đưa tâm về đồng điệu với tâm của vị long vương thì Ngài thấy vị này đang chăm chú hướng tâm về mình, dường như không bao giờ ngủ hay không có việc gì khác để làm. Quả thật đáng thương, vị long vương lúc nào cũng bị những suy nghĩ về Ngài thiêu đốt thay vì có những tư tưởng khác. Ngài Acharn rất thương, biết rằng thái độ tư tưởng lầm lạc như thế sẽ tạo nghiệp bất thiện quay trở về gây tổn hại cho cái tâm đã sanh ra nó. Do đó Ngài thuyết giảng khá dài như sau: “Ta đến đây với mục đích tự phát triển và giúp những người khác, không bao giờ hại ai. Ông không nên nghĩ rằng ta đến đây chỉ để gây phiền phức cho ông. Tất cả những quả phúc mà ta đã tạo được, ta đều hồi hướng đến tất cả chúng sanh, trong đó có ông. Chắc chắn ông sẽ không gặt được thành quả gì tốt đẹp từ việc bắt lỗi ta. Là một chúng sanh ta không thể không cử động, di chuyển hay thay đổi tư thế. Về phương diện tự kiểm soát, ta đã hết sức cố gắng, nhưng dù sao ta vẫn còn sống, không thể nằm cứng đơ như chết hay không thở. Trong khi ngủ, hệ thống cơ thể vẫn còn hoạt động, và về phương diện ấy ta không thể không gây tiếng động, cũng như khi đi hay khi làm việc gì khác.

“Hình như ông luôn thổi phồng những gì ta làm, thí dụ như nói là ta đi giống như ngựa đua. Ông phải hiểu biết rằng ngựa là một con thú, không thể so sánh với một đạo sỹ ẩn dật luôn luôn thực hành pháp tự kiểm soát. Đó là điều mà ông không nên làm nếu không muốn vô hiệu hóa những thiện nghiệp của chính ông và xuôi chân tiến thẳng về những cảnh khổ. Nếu ông có ý định tiến bộ và phát triển thì từ nay nên quan sát chính cái tâm của mình và cố gắng hiểu, xem nó tốt hay xấu, chân chánh hay lầm lạc, để khỏi bị lửa bất thiện của chính mình thiêu đốt. Ác ý tìm lỗi người, kể cả khi người kia thật sự có lỗi, chính bản chất của nó là bất thiện, nó cũng trở lại làm ô nhiễm và hư hoại chính tâm mình.

“Tất cả những cử động của tôi là bình thường, mặc dù đã tận lực tự kiểm soát mà vẫn bị khiển trách nặng nề. Nếu ông là một chúng sanh trong cảnh người thì sao nữa? Trường hợp của ông giống như cái nồi bảo cái ấm đun nước là màu đen (thành ngữ tiếng Anh: “the pot calling the kettle black” nghĩa là người có lỗi ở chính việc bắt lỗi người khác). Ông nên biết rằng những lời than phiền của ông không làm phiền lòng tôi chút nào mà quay trở về đánh lại ông để trả thù. Hậu quả rõ ràng đến với ông, chỉ vì ông từ chối không chịu mở mắt để nhìn. Tôi đã biết từng suy nghĩ của ông và đã tha thứ, nhưng hình như ông không ngừng tạo thêm những suy nghĩ đó, nó chỉ gây thiệt hại và đau khổ cho chính ông. Tại sao ông vẫn tích trữ bất thiện pháp mà không biết mệt? Nếu ông là người đang lâm bệnh thì chứng bệnh của ông giờ đây hầu như không thể trị. Tôi đã từng giúp đỡ nhiều chúng sanh như chư thiên, quỷ, ma và những vị long vương khác, những vị có nhiều năng lực hơn ông. Tất cả đều chấp nhận và đã nhận thức giá trị của Giáo Pháp, ngoại trừ ông, chỉ khư khư thỏa thích trong ác ý tìm lỗi người một cách vô lý, do đó lãng quên không nhìn để thấy chân lý của Giáo Pháp. Quả thật đáng thương cho ông, tưởng rằng những suy nghĩ ấy là hữu ích và có lợi. Điều đáng thương hơn nữa là khi cơ thể này của ông tan rã, ông sẽ đọa vào cảnh khổ.

“Giờ đây tôi phải thành thật nói với ông, không chút ác ý nào, và hy vọng rằng ông sẽ không diễn dịch sai lầm. Từ ngày đến lưu ngụ tại đây, tôi luôn luôn tôn trọng sự có mặt và những cảm nghĩ của ông, cố tâm tận lực tự kiểm soát trong mọi cử động để không gây phiền phức cho ông. Tôi đã biết rằng ông có khuynh hướng ưa tìm bắt lỗi, và đang tìm lỗi của tôi. Giờ đây ông phải biết rằng bẩm tánh ưa tìm bắt lỗi của ông không làm phiền lòng tôi chút nào, bởi vì tôi không bao giờ thích tìm lỗi người khác. Chính vì hành động của mình, ông đã chịu phiền não nhiều nhất.

“Như vậy trong trường hợp này, tôi có thể nói là mình không bao giờ có ác tâm. Bất luận có ác ý nào đều thuộc về của ông và chỉ là của ông. Người thiện chí không còn luyến ái thế gian phàm tục, hoan hỷ thọ hưởng quả phúc của thiện nghiệp mình đã tích được, cho mình và cho người khác. Tại sao ông khư khư hướng tâm về những tư tưởng và hành động sai lầm như vậy? Tôi không chịu đau khổ vì hậu quả của những hành động bất thiện mà ông tạo, nhưng thấy rằng ông sẽ đau khổ, tôi muốn tránh cho ông. Tôi biết những nghiệp bất thiện ấy chắc chắn sẽ làm cho người tạo ra nó đau khổ như thế nào, và đó là điều làm tôi lo sợ. Cảnh già nua, bệnh hoạn, và chết chóc có thể là khủng khiếp đối với người khác nhưng đối với tôi không nghĩa lý gì so với hậu quả của nghiệp bất thiện.

“Trong Phật Giáo, xuất gia tỳ khưu là tự ý chấp nhận đức hạnh phải lội ngược dòng chảy của ô nhiễm, tự rèn luyện mình phải hành động thích hợp với Giáo Pháp. Nếu không theo Giáo Pháp mà thuận chiều xuôi dòng theo trào lưu ô nhiễm ắt sẽ phải gặp nhiều phiền não và đau khổ. Điều ấy tôi đã biết và đã vui lòng chấp nhận nhằm mục đích Giải Thoát ra khỏi ô nhiễm. Cũng vì mục tiêu ấy tôi đến đây, nơi hang động này, và gánh chịu những sự không tiện nghi khác nhau. Không bao giờ tôi có ý định đến đây để gây phiền phức cho ông, tôi cũng không bao giờ ôm ấp dưỡng nuôi ác ý với bất luận chúng sanh nào khác trong Tam Giới vì tôi biết rằng tất cả đều là đang thừa kế quả của nghiệp mà mình đã tạo. Tôi luôn luôn hồi hướng quả phúc của những thiện nghiệp đã tạo đến tất cả chúng sanh, trong đó có ông. Ông nên ghi nhớ nằm lòng điều ấy và xem xét lại việc tìm lỗi người khác với ác ý thì có lợi ích gì không. Không ích gì hết, mà còn tạo nhiều đau khổ cho chính mình. Tôi muốn khuyên ông nên nhận thức điều này và chấm dứt những tư tưởng và những hành động bất thiện chỉ đưa ông vào những khổ cảnh.

“Giáo Pháp là sở hữu của tất cả chúng sanh trong tất cả những cảnh giới. Đó là sự thật mà ta phải chấp nhận, mặc dù chưa ở trong vị thế có thể thực hành hay nhận thức đầy đủ. Sự thật này bao trùm toàn thể Tam Giới và không thù nghịch với bất kỳ ai. Ai thông hiểu sự thật này luôn luôn cố gắng làm theo bằng mọi cách có thể. Ông là một trong những người có khả năng hiểu biết Giáo Pháp đến một mức độ nào đó, nhưng tại sao ông lại làm những việc trái ngược và tự ép mình làm những chuyện đưa đến đau khổ không xiết kể? Ông biết đau khổ là thế nào và không muốn đau khổ, nhưng tại sao lại tìm thỏa thích trong sự tích trữ những nguyên nhân đưa đến đau khổ, ác ý tìm lỗi người. Ông đã nhận thức được, rằng nó sẽ mang lại những đau khổ mà ông không muốn chút nào chưa?

“Tôi biết rằng từ lâu ông đã ấp ủ những tư tưởng ác cảm ấy mà không hay rằng tôi có thể biết. Đối với ông, cảm nghĩ của tôi chỉ là thương hại, không phải phẫn nộ hay sân hận. Sở dĩ tôi nói với ông như vậy là muốn giúp ông. Hãy ghi nhớ rằng bất luận hậu quả bất thiện nào xảy diễn, nó là của ông và chỉ xảy đến bởi ông là người đã tạo ra và ấp ủ dưỡng nuôi nó. Tôi không có chút gì phiền muộn vì không chút gì bận lòng. Trong tâm tôi, ngoài nỗi niềm thương hại cho sự lầm lạc tai hại của ông, là mức độ thanh bình an lạc và hạnh phúc không lay chuyển.”

Suốt quãng thời gian đó vị long vương không có một lời phản đối. “Những lời của vị đạo sỹ quả thật là hay,” vị long vương nghĩ, “nhưng ta sợ mình không thể làm theo đúng như vậy. Từ lâu mình đã có thói quen nghĩ như thế. Có lẽ phải đến khi tái sanh vào một cảnh giới khác mình mới có thể làm đúng theo lời dạy. Vị đạo sỹ quả thật phi thường và độc nhất. Đối với Ngài mình là vô hình, làm sao Ngài biết mình ở đây. Và làm thế nào Ngài biết những suy nghĩ của mình? Có nhiều, rất nhiều vị tỳ khưu đã đến lưu ngụ tại đây, nhưng không một ai biết đến sự hiện diện của mình. Tất cả đều bị ta dùng mánh khóe, kể cả nọc độc, để đuổi đi hết. Kể cả khi ngủ Ngài cũng biết những suy tư của ta! Hình như Ngài biết mọi việc.

“Giờ đây chỉ còn những tư tưởng và thái độ tâm linh của ta thì sao? Hình như vô phương cứu chữa. Có lẽ là ta đã dồn chứa vào đó nhiều bất thiện pháp. Lời dạy của Ngài hiển nhiên là được ban truyền với nhiều thiện ý, nhưng chính cái tâm của ta không thể tự chữa trị. Không biết điều gì xảy đến ta trong cảnh sanh sắp tới?”

Ngừng nghỉ một lúc rồi Ngài Acharn hỏi: “Ông có nhận thức rõ ràng sự thật về những điều tôi vừa nói không?”

“Tôi hiểu từng từ một những gì Ngài nói, nhưng cũng biết rằng khó mà tôi có thể tự sửa mình bởi vì tâm tánh tôi từ lâu đã quen thuộc với những khuynh hướng bất thiện ấy,” vị long vương trả lời.

“Ông muốn nói những khuynh hướng bất thiện nào?” “Tánh ưa tìm lỗi người của tôi,” vị long vương trả lời, “Tôi biết nó là bất thiện pháp, nhưng không thể nào làm gì để sửa chữa.”

“Thật đủ tốt rồi nếu ông nhận định rõ ràng đó là bất thiện pháp và cố gắng tự sửa mình.” Ngài Acharn nói: “Những thói quen hay tật xấu sẽ dần dần suy giảm. Tôi chỉ có thể chỉ lối. Tôi không thể làm gì giúp ai sửa lỗi của chính họ, đó là nhiệm vụ của mỗi người, tùy theo sự hiểu biết và ý chí muốn thực hành Giáo Pháp. Với hạnh chuyên cần thực hành và cố gằng tự rèn luyện, bất luận khuynh hướng bất thiện nào chắc chắn cũng phải suy giảm và có thể bị loại trừ ra khỏi tâm. Nếu ông thành thật tin tưởng Giáo Pháp của Đức Phật, Giáo Pháp sẽ bảo vệ ông. Tâm được Giáo Pháp bảo vệ lúc nào cũng thọ hưởng trạng thái thanh bình hạnh phúc, dù ngủ hay thức. Tâm ấy có thể giữ thế quân bình trong mọi hoàn cảnh rối loạn. Đó là lợi ích mà Giáo Pháp mang đến cho người thực hành Giáo Pháp.”

Vị long vương lãnh hội chân lý của lời dạy và nguyện sẽ cố gắng vâng giữ hành theo. Chính ông đã nhận thấy có cải thiện đôi chút trong việc trau dồi đức hạnh tự kiểm soát nhưng vẫn còn nhiều loạn động. Ngài Acharn thấy rằng sự hiện diện của Ngài ở nơi đó không giúp ích nhiều cho vị long vương nên Ngài nói Ngài sẽ đi nơi khác. Vị long vương vui lòng đồng ý và như vậy chấm dứt câu chuyện của Ngài Acharn với vị long vương có tánh tìm lỗi người khác.


^^^


101. Ảnh hưởng của thói quen và sự lặp đi lặp lại 


Thói quen, dù là những thói quen tốt hay xấu, đều phải có nguyên nhân. Phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi trở thành bản chất thứ hai của một người. Thói quen xấu thì khó chế ngự bởi vì nó kéo tâm xuống mạnh mẽ, trong khi thói quen tốt luôn luôn tạo năng lực nâng cao tâm. Như vậy, điều quan trọng là người làm cha mẹ nên gieo trồng trong tâm của trẻ con những thói quen tốt, trước khi quá muộn. Thí dụ, nên chọn cho những người trông nom có đức tính tốt.

Trẻ con thường xuyên thâu nhận những lời dạy ở nhà theo quy luật tự nhiên. Loại giáo dục ấy ảnh hưởng đến tâm tánh của chúng nhiều hơn là những gì học được ở trường. Trẻ con sống ở ngoài trường nhiều hơn là ở trong trường, và ở trường học ngoài đời, nơi có thể học những định luật của tự nhiên, là ở tất cả mọi nơi ngoài trường. Những gì trẻ con thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ đụng và suy tư trong mỗi khoảnh khắc của ngày và đêm là tấm bảng đen trên đó có chữ viết rành rọt những bài học của đời. Chúng học những bài học khác nhau từ những nơi và tất cả những người mà nó gặp, đàn ông, đàn bà hay các thanh thiếu niên, dù ở những nơi giải trí. Tất cả đều là thầy giáo, dạy những điều tốt cũng như xấu mà trí óc non nót của trẻ con sẵn sàng thâu nhận và lãnh hội, và sẵn sàng làm y theo những người thầy. Bao nhiêu tốt và xấu mà nó gặp trong khi lớn lên chắc chắn sẽ quyết định tâm tính của nó khi làm người lớn.

Ảnh hưởng của môi trường sống cũng có thể tạo nên việc lặp đi lặp lại và chính sự lặp đi lặp lại tạo nên thói quen mà về sau hoàn toàn thấm sâu vào bẩm tánh và biểu hiện ra thành suy nghĩ, lời nói và hành động. Chính vì những thói quen mà con người tốt hay xấu cảm thấy khó lòng thay đổi những thành kiến hay khuynh hướng đã ăn sâu vào tâm tánh. Cái gì đi ngược những khuynh hướng hay tâm tánh không thể trụ được lâu và dễ dàng bị loại bỏ khi có cơ hội. Nhưng khi kết quả của nó, dù tốt hay xấu, hiển lộ rõ và thuận theo tính cách, tâm sẽ in sâu thấm nhuần trong đó, và cái bản tánh này khó khắc phục nhất. Điều này cho thấy tầm quan trọng của thói quen, đặc biệt là những thói quen trong sạch, vốn phải được đào luyện một cách cần mẫn, kiên trì và nhẫn nại, và nghiêm chỉnh tu tập, cùng với trí tuệ phân biệt. Những điều này cần áp dụng cho việc tiêu tiền, ăn uống, ngủ nghỉ, đi những nơi giải trí, đứng đắn hành đúng theo nghi thức của con nhà gia giáo, v.v. Lẽ dĩ nhiên sẽ gặp những vấn đề khó khăn khi phát triển và thay đổi như vậy, nhưng với việc kiên trì thực hành và trì giới thì khó khăn sẽ dần dần tan biến. Do đó, thói quen có thể thay đổi được mặc dù lúc đầu sẽ gặp những khó khăn làm chán nản. Điều này đúng với người lớn cũng như trẻ em.

Không có gì tốt đẹp có thể tự nhiên đến mà không cần cố gắng luyện tập và không kiên tâm hành trì. Điều này đặc biệt đúng với những thói quen tốt hay những người tốt. Trên phương tiện này, thế gian chỉ là một trường đào tạo rộng lớn trong đó tất cả chúng sanh tự rèn luyện suốt đời, từ lúc còn nằm trong nôi cho đến khi xuống mồ. Bất luận mục tiêu nào chưa thành đạt, phải tận lực tiến đến gần bằng cách kiên trì lặp đi lặp lại gọi là thực hành, và việc này đòi hỏi phải chuyên cần tinh tấn và kỷ luật. Không có mục tiêu hay kết quả tốt đẹp mong ước nào có thể thành tựu mà không cần phải kiên nhẫn chịu đựng và nhiệt thành tinh tấn trong khi tự rèn luyện.


^^^


102. Cách viên tịch của các vị đệ tử A La Hán 


Trong khi lưu ngụ tại động Chiengdao Ngài Acharn có thấy nhiều linh ảnh đặc biệt thích thú. Hầu như mỗi đêm trong những giờ sớm chư thiên từ nhiều cảnh giới khác nhau đến thăm viếng Ngài để nghe thuyết giảng. Đôi khi chỉ có một nhóm, nhưng có khi có hai hoặc ba nhóm đến trong một đêm và Ngài giảng cho mỗi nhóm một thời Pháp thú vị, tùy theo khuynh hướng và mức độ thuần phục của họ. Đôi khi cũng có những vị A La hán đến thăm Ngài để trao đổi những lời thăm hỏi. Thỉnh thoảng các vị ấy cũng chỉ Ngài cách viên tịch. Có những vị viên tịch tại hang động này, và những vị viên tịch ở những nơi khác. Các Ngài luôn có lời chỉ dạy. Những điểm chánh yếu sẽ được trình bày ở phần sau và người viết xin người đọc lượng thứ về những khiếm khuyết chắc chắn có.

Một vị A La Hán, bất kể thuộc nhóm nào, là hạng người phi thường và tối thượng. Rất khó có được một vị A La Hán xuất hiện trên thế gian. Ngài chỉ kém hơn Đức Phật. Đời sống của một vị A La Hán khác xa với người thường. Đó là cuộc sống thấm nhuần Giáo Pháp và do Giáo Pháp bồi bổ nuôi dưỡng, mặc dù cơ thể không khác gì thân người thế gian. Tâm tuyệt đối trong sạch làm mát mẻ cùng khắp cơ thể.

Một vị A La Hán nói với Ngài Acharn trong khi đến thăm: “Sư là một trong những vị A La Hán đã diệt trừ tận gốc rễ mọi mầm mống tái sanh trong tâm và do đó đã không còn nguồn gốc để trở thành, đã chấm dứt vòng quanh sanh tử luân hồi và xứng đáng được thế gian lễ bái. Vì thế chúng tôi đến đây để tán dương mức thành tựu của Sư, vốn rất hiếm hoi trong Tam Giới. Đó là mục tiêu mà phần đông muốn thành đạt nhưng ít người chịu dấn thân trên Đạo Lộ. Người ta mong muốn được tình trạng an toàn bề ngoài, dưới hình thức cha mẹ hay thân bằng quyến thuộc (bao gồm sức khỏe của cơ thể vật chất, an toàn về mặt tài chánh, v.v.) nhưng rất hiếm ai nghĩ đến tình trạng an toàn bên trong, trong chính cái tâm của mình. Vô số chúng sanh thiếu nhân của tình trạng an toàn thật sự này vì họ xem thường tầm quan trọng của nó. Như vậy có được một vị A La Hán là một lợi ích lớn lao cho Tam Giới. Sư đã từng hỗ trợ rộng rãi những chúng sanh trong cảnh người và những cảnh vô hình, vì Sư thông thạo ngôn ngữ của tâm, đó là ngôn ngữ tối thượng trong Tam Giới. Mỗi vị Phật và nhiều vị A La Hán sử dụng ngôn ngữ chung ấy để giúp người khác, nhất là những chúng sanh vô hình. Ngôn ngữ này quả thật hữu dụng trong việc giao tiếp giữa tâm và tâm.”

Sau những lời dạy, phần lớn các vị A La Hán đến thăm trình bày rõ cách các Ngài nhập Đại Niết Bàn (parinibbāna). Vài vị viên tịch trong khi ngồi kiết già, những vị khác khi đi hay đứng. Phần nhiều các Ngài nằm nghiêng mình bên tay phải hoặc ngồi kiết già, chỉ rất ít vị nhập Đại Niết Bàn trong tư thế đứng hay đi. Những vị nhập Đại Niết Bàn trong khi ngồi nhẹ nhàng từ từ ngã mình xuống vào giây phút cuối cùng, ngưng mọi chức năng của thân. Đối với những vị viên tịch trong tư thế nằm thì rất khó theo dõi vì hơi thở nhẹ dần càng lúc càng vi tế hơn, và trông giống như ngủ hơn là viên tịch. Có vị viên tịch trong tư thế đứng, hai tay để trước ngực, bàn tay phải đặt trên bàn tay trái, mắt nhắm. Sau một lúc Ngài từ từ ngồi xuống và rồi nằm xuống. Cũng có vị đi tới đi lui kinh hành sáu bảy vòng rồi từ từ nằm xuống.

Điểm đặc biệt đáng được ghi nhận là cơ thể vật chất của những vị nhập Đại Niết Bàn (parinibbāna) trong khi ngồi, đứng hay đi đều trông như không trọng lượng. Các Ngài hạ mình nằm xuống một cách nhẹ nhàng như lông chim hơn là thân thể người. Tất cả những vị A La Hán đứng trước Ngài Acharn khoảng một thước và trình bày cách các Ngài nhập Đại Niết Bàn, viên tịch một cách bình thản, rất oai nghiêm, không tỏ dấu hiệu gì đau khổ hay loạn động giống như người thường trong dân gian. Câu chuyện về phương cách mà các vị cao siêu tối thượng này từ giã thế gian trần tục quả thật phi thường.

Chính tại hang động này của núi Chiengdao có ba vị A La Hán nhập Đại Niết Bàn, hai vị trong tư thế nằm và vị thứ ba trong khi đi. Cả ba vị đó cũng cho thấy cách nhập Đại Niết Bàn của mình sau khi giải thích lý do tại sao mình lại nhập Đại Niết Bàn theo cách như vậy. Ngài Acharn nói có nhiều vị A La Hán đã nhập Đại Niết Bàn tại Thái Lan. Ngài chỉ nhớ có ba vị tại hang động của Núi Chiengdao thuộc tỉnh Chiengmai, hai vị ở thị trấn Lopburi, một ở động có tên là Tago và một vị khác ở sau Núi Vong Phra Chan, một vùng ở Khao Yai trong thị trấn NaKhon Nayok và một vị khác nữa trong thị trấn Langpang tại tu viện Thart Luang quận Gok Kha. Còn nhiều vị khác nữa mà người viết không thể nhớ hết.


^^^


103. Niết Bàn 


Từ nirvana hay chính xác hơn, như ở phần trên có đề cập đến, parinibbāna (Đại Niết Bàn) được dùng khi nói về chư Phật Toàn Giác, chư Phật Độc Giác (Pacceka Buddha) và chư vị A La Hán, những vị đã tận diệt mọi ô nhiễm, tức đã tuyệt đối loại trừ mọi mầm mống tái sanh trong tâm. Không thể dùng từ này cho sự từ trần của người thế gian phàm tục bởi vì các vị này chưa thoát ra khỏi vòng trói buộc của ô nhiễm. Khi lìa cõi này người phàm tục còn phải tái sanh vào một cảnh giới khác, và khi lìa cảnh giới ấy lại phải tái sanh vào một cảnh giới khác nữa, có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, tùy theo nghiệp đã tạo. Một chúng sanh ở cảnh người có thể tái sanh vào cảnh thú vì chính cái nghiệp mà người ấy tích trữ giống loài thú hơn giống như người. Dù ở trong cảnh thú cũng có nhiều cấp bực, nhiều loại, nhưng có thể nói rằng có nhiều đường về cảnh khổ hơn là đường vào cảnh người hay những cảnh vô hình cao thượng hơn cảnh người. Đó là vì bản chất tự nhiên của chúng sanh (không được rèn luyện và không theo Đạo) thường nghiêng về những ảnh hưởng bất thiện, vốn có vẻ hấp dẫn hơn là những ảnh hưởng thiện. Vì lẽ ấy có nhiều thú tính hơn là tâm tính chúng sanh ở cảnh người và những chúng sanh vô hình ở cảnh giới cao hơn.

Tất cả những chúng sanh ấy, dù là người, thấp hơn hoặc cao hơn người, đều có một điểm giống nhau là nuôi dưỡng trong tâm của chính mình mầm mống tái sanh và trở thành, và như thế tất cả đều tiếp tục một loạt những kiếp sống và chết, và khi những vị này lìa đời thì không được gọi là nhập Đại Niết Bàn (parinibbāna). Chỉ có những vị đã hoàn toàn thanh lọc tâm của mình trong khi còn cơ thể vật chất mới được gọi là nhập Đại Niết Bàn khi thân của các Ngài tan rã.


^^^


104. Độc quyền nhưng mọi người đều có thể thành tựu 


Những vị mà tâm đã tuyệt đối trong sạch, hoàn toàn không dính mắc vào thân xác, tan rã ở giây phút cuối cùng gọi là chết. Các Ngài không còn dính mắc vào vật hay người nào nữa, bên ngoài hay bên trong, xa hay gần. Ra đi như vậy thật là giã từ ngũ uẩn một cách không luyến tiếc hay lo âu, không ước nguyện sẽ đi đâu, không nghĩ sẽ hưởng quả lành hay quả dữ. Vào khoảnh khắc ấy, chỉ còn đặc tánh vững chắc và bất lay chuyển của tâm giải thoát, không còn thu lợi ích hay thua thiệt từ thế gian. Các Ngài vượt ra ngoài thời gian và không gian nghĩa là không còn bị thời gian và không gian giới hạn, không còn chút gì của thế gian làm ô nhiễm tâm. Đó là parinibbāna (Đại Niết Bàn) của những vị đã tận diệt ô nhiễm, hoàn toàn tách rời khỏi điều kiện của thân, dù cho lúc còn sống hay vào lúc tan rã.

Đó là độc quyền của những vị mà tâm đã tuyệt đối trong sạch mà cũng không thể có được nếu tâm chưa được thanh lọc hoàn toàn. Độc quyền này trái hẳn với những quyền lợi hay sở hữu bên ngoài mà người có quyền lực có thể dùng sức mạnh để chiếm đoạt sở hữu và nói là làm như thế là đúng. Mà nó thuộc về tất cả những ai lưu tâm và dám tạo nguyên nhân dẫn đến sự thành tựu đó. Ngài Acharn được các vị A La Hán tán dương và được mọi người khắp nơi trong nước tôn sùng lễ bái vì Ngài sống đúng với Giáo Pháp, chuyên cần tinh tấn đúng mức và do đó có thể chứng ngộ chân lý. Ngài đã đối xử đúng mức với cơ thể vật chất và không bao giờ để nó trở thành một gánh nặng. Tất cả những gì còn lại với Ngài là chân lý không thay đổi, không bị thời gian giới hạn.


^^^


105. Hiệu quả chữa bệnh của Giáo Pháp 


Trong khi lưu ngụ trong những vùng rừng sâu của tỉnh Chiengmai Ngài Acharn lâm bệnh nhiều lần. Nếu chỉ dựa vào thuốc và các y sỹ thông thường ắt Ngài đã viên tịch từ lâu. Và trong mọi trường hợp, Ngài thường gọi đó là “thở bằng lỗ mũi của người khác.” Ngài tự chữa lấy bằng cách áp dụng Giáo Pháp chữa bệnh cho mình mỗi khi lâm bệnh. Đó là lối thực hành thường xuyên của Ngài Acharn, thích việc không phải phụ thuộc vào thuốc và các vị y sỹ thông thường, kể cả mãi về sau lúc tuổi già sức yếu.

Một lần Ngài ở cùng với ba vị tỳ khưu trong một vùng rừng có nhiều bệnh sốt rét, và một trong các vị ấy lâm bệnh. Vào lúc bấy giờ ở giữa vùng rừng, tuyệt đối không có thuốc, và như vậy không có gì để làm giảm suy chứng bệnh. Vị tỳ khưu ấy bị bệnh rất nặng. Vào buổi sáng và buổi chiều Ngài Acharn đến thăm và dạy sư cách áp dụng Giáo Pháp đã chứng tỏ là có hiệu quả. Nhưng đối với vị Sư ấy thì vô hiệu. Ý chí của sư không đủ dũng mãnh. Sư chịu đầu hàng những cơn sốt rét cho đến khi tự cơn sốt chấm dứt. Có thể Ngài Acharn khó chịu vì bẩm tánh yếu ớt ấy nên làm ra vẻ nghiêm khắc quở rầy vị sư.

“Sư được gọi là Mahā (người có thể đọc tiếng Pāli), vậy kiến thức về kinh điển Pāli Sư để ở đâu? Tại sao không gọi nó về để cứu giúp Sư? Quả thật Sư đã hoang phí thì giờ và bao nhiêu công trình tu học để thành đạt chức vị Mahā! Mục tiêu của việc học là để sử dụng vào những lúc khẩn thiết, nhưng kiến thức của Sư là loại kiến thức nào? Quả thật vô dụng khi thực hành. Sư sắp chết đến nơi và tất cả những kiến thức mà Sư đã mất bao nhiêu thì giờ góp nhặt không thể gọi về để giúp Sư. Vậy thì Sư học để làm gì? Tôi không phải là một vị Mahā, cấp thấp nhất cũng không được (có tất cả chín bậc). Tất cả những gì tôi có, chỉ là năm đề mục hành thiền (16) mà Thầy Tế độ đã dạy tôi trong ngày xuất gia. Xem hình như Sư càng học nhiều càng trở thành suy yếu, càng ít can đảm hơn một phụ nữ không được đi học. Sư là đàn ông và Sư cũng là Mahā. Tại sao Sư lại ươn hèn như thế. Trong lần ốm này Sư không làm gì để tỏ rằng mình là đàn ông và là một nhà sư. Hay tốt hơn Sư nên thay bộ y này ra và mặc vào y phục đàn bà. Khi đó, chứng bệnh này thấy Sư là phụ nữ có thể sẽ thương hại mà nhẹ tay hơn.

“Mỗi lần đến đây tôi đều thấy Sư không bao giờ hành động như một người đàn ông mà lúc nào cũng âu sầu phiền muộn. Vậy thì tu học trau dồi và phát triển tâm và cấp bậc Mahā để làm gì? Ý nghĩa của vô thường là gì? Có phải để rên la than khóc kêu mẹ trong lúc đau ốm không? Nếu giờ đây Sư không thể chịu đau khổ ở mức độ này, chắc chắn đến lúc nguy kịch Sư sẽ bó tay quy hàng, chịu thua một cách tuyệt vọng, khi thân này sắp tan rã! Sư đã chịu thua từ đầu. Giờ đây còn hy vọng nào chứng ngộ Khổ Thánh Đế? Người đã thoát khỏi đau khổ phải mạnh dạn đương đầu với Diệu đế này khi nó đến với mình ở bất kỳ mức độ nào. Sư đã thua trắng từ hiệp đầu! Còn hy vọng nào nữa bây giờ?”

Nói tới đây Ngài Acharn dừng một lúc và nhìn người bệnh, lúc bấy giờ phản ứng với liều thuốc bằng những giọt lệ tuôn đầy mặt. Nhận ra lời nói của mình có thể quá mạnh, Ngài dịu giọng nói: “Nhưng tôi chắc chắn rằng Sư sẽ sớm bình phục.”

Đêm hôm ấy Ngài có lẽ đã cho một toa thuốc mới, một loại thuốc êm dịu hơn cho bệnh nhân, lúc bấy giờ tâm thần còn yếu, rồi sáng hôm sau, và những ngày kế tiếp Ngài đổi phương pháp chữa trị. Ngài dịu giọng, nói những lời an ủi như là một thầy thuốc khác hẳn. Lời nói trở nên dịu dàng, vui vẻ và hiền hòa như mẹ, tạo nên những ảnh hưởng mát mẻ cho tỳ khưu đó, lúc bấy giờ đang hồi phục từ từ nhưng vững chắc. Phải nhiều tháng sau vị tỳ khưu bệnh nhân mới hoàn toàn bình phục.

Ngài Acharn lúc nào cũng có nhiều phương pháp để trị bệnh về cả tinh thần lẫn vật chất cho các đệ tử của mình. Ngài có khả năng áp dụng phương cách phù hợp và thay đổi mình để thích ứng với hoàn cảnh cần sự giúp đỡ của Ngài.

__________

(16). Đó là quán niệm về bản chất uế trược đáng gớm của thân, khởi đầu với tóc, lông, móng, răng, da. Có tất cả ba mươi hai đề mục quán niệm về bản chất uế trược của thân. Năm thành phần kể trên là hình thức tóm tắt, bao gồm những phần bên ngoài của thân, hai mươi bảy phần còn lại nằm bên trong thân.


^^^


106. Đau khổ tinh thần và vật chất phải được quán niệm rồi buông xả 


Trong những lúc đau đớn nguy kịch hay có vấn đề khó khăn, Ngài Acharn tập trung tất cả năng lực của niệm và tuệ để giải quyết. Dù trong khi đau ốm hay lúc phải đương đầu với một cuộc phản công dữ dội của ô nhiễm tiềm tàng ẩn núp, niệm và tuệ đều được gọi đến ngày đêm để phá tan sự bế tắc. Lời giải sẽ được tìm ra, lối đi mù mịt trong đêm tối sẽ được rọi sáng, và một lần nữa không còn trở ngại trên đường Đạo. Đó là kinh nghiệm của Ngài từ lúc ban sơ của pháp hành đến khi đạt đến thành tựu cuối cùng. Về sau, khi những vị thực hành dưới sự hướng dẫn của Ngài lâm bệnh, Ngài dạy kỹ thuật phản công đau khổ do cơn bệnh gây nên, và dạy họ không nên hoàn toàn tùy thuộc vào thuốc men. Đó là kỹ thuật quán niệm các đau khổ ấy như biểu lộ của những hiện tượng thiên nhiên. Những đau khổ này, Ngài nói, biểu hiện rõ ràng cho ta thấy chân lý thâm diệu của Khổ Thánh Đế. Chúng hiện ra cho ta quán niệm. Là tỳ khưu không nên còn là nạn nhân của những khổ đau như người thường không hiểu biết gì về Giáo Pháp.

Từ những kinh nghiệm quá khứ, Ngài không bao giờ bỏ qua việc rút bài học từ những khổ đau của thân mỗi khi nó dọa gây khó khăn cho tâm. Chính trong những cơ hội này mà Ngài có thể cải tiến phương cách giải quyết vấn đề và tăng cường niệm và tuệ. Không bao giờ Ngài để cho sự đau đớn hay khổ sở tấn công mà không phản ứng trở lại, vì trong những trường hợp như vậy cần vận dụng mọi nguồn lực và sử dụng tất cả sức lực. Đồng thời, đây cũng là một kiểm tra, một cách đo khả năng của niệm và tuệ vào lúc bấy giờ, và là một lần diễn tập nhằm tiên đoán chính xác thành công hay thất bại vào giờ phút nguy ngập. Theo phương cách này, khuyết điểm nào cũng có thể sửa được, với niệm và tuệ vững chắc tiến bộ như chuẩn bị cho một cuộc chiến thật sự mang tính quyết định sẽ đến sớm hay muộn.

Khi niệm và tuệ phát triển đầy đủ, hành giả sẽ không lo ngại về Khổ Thánh Đế. Hoạt động kịp thời của niệm và tuệ giúp hành giả vững chắc giữa cơn giông tố của đau khổ vẫn từ mọi phía liên tiếp hăm dọa sẽ quật hành giả tan ra từng mảnh. Nơi nương tựa và trú ẩn của hành giả giờ đây là niệm và tuệ của chính mình, cái tự mình có thể vô hiệu hóa cơn thịnh nộ của bão táp và luộc chín tất cả những hình thức biểu hiện của đau khổ thành ba đặc tính (vô thường, khổ và vô ngã), do đó hành giả bình thản không bị ảnh hưởng của những hiện tượng tự nhiên. Lúc thân tan rã là lúc sức hăm dọa của đau khổ lên đến cực độ, và chỉ có niệm và tuệ được phát triển đầy đủ mới có thể đương đầu với ảnh hưởng áp chế tàn bạo này. Đối với vị hành giả như vậy, vấn đề đã được giải quyết - nếu chết, vị ấy chết thành người chiến thắng, nếu sống, vị ấy hạnh phúc hơn. Vị ấy đã chiến đấu mở đường đến trạng thái an toàn và có thể được gọi là bậc siêu nhân đã chinh phục, không phải ai khác, mà chính là ô nhiễm của mình. Chính vì lợi lạc to lớn này mà việc quán niệm đau khổ luôn được đề cao.


^^^


107. Khả năng nội tâm và những lời dạy sôi nổi của Ngài 


Ngài Acharn quả thật là một hình mẫu về cả cách thực hành bên ngoài, kham nhẫn, can đảm và hài lòng, mà không ai trong hàng để tử có thể sánh bằng, và khả năng bên trong có thể nhìn xa, nghe xa và thần giao cách cảm. Ngài có thể giao tiếp với chúng sanh vô hình của những cảnh giới khác nhau, thấy, nghe, và thông cảm với những chúng sanh từ xa đến gần. Khả năng “thấy” được tâm của người và thú quả thật phi thường và Ngài có khả năng hồi nhớ suy nghĩ và thái độ mà chính các đệ tử đương sự đã quên từ lâu. Rất nhiều lần, lần đầu tiên Ngài nhắc đến những suy nghĩ hay thái độ thì người được nghe không có phản ứng gì vì chính vị ấy đã quên từ lâu rằng mình đã từng nuôi dưỡng suy nghĩ đó hay đã vượt qua được nhờ thái độ đó.

Dưới sự hướng dẫn và rèn luyện của Ngài, vị đệ tử không cần ở trước mặt Ngài. Họ có thể ở đâu cách xa, nhưng đối với Ngài, không bao giờ có thể giữ bí mật những suy nghĩ của mình. Mỗi ý nghĩ hoang dại và không được kiểm soát chắc chắn là sẽ bị nhắc đến vào một lúc nào đó cùng những lời khuyên dạy. Nhưng những vị nào có những ý tưởng xấu xa trước mặt Ngài, dù trong giờ thuyết giảng hay thảo luận Giáo Pháp cũng sẽ bị mắng nghiêm khắc ngay tại chỗ.

Theo lời nhiều vị Acharn đệ tử của Ngài ở Chiengmai, năng lực thần thông của Ngài quả thật phi thường và nhiều khi rất đáng sợ. Khả năng đọc được tâm người khác của Ngài đặc biệt đáng sợ vì ngay lúc thất niệm và cho suy nghĩ sai lầm nắm kiểm soát thì tức khắc bị cảnh báo hay quở rầy. Do đó, dưới sự hướng dẫn của Ngài mỗi người đều phải nghiêm ngặt kiểm soát tâm vì không thể che đậy gì đối với cái tâm nhìn thấu tất cả của Ngài. Đôi khi những vị đệ tử của Ngài, hiểu biết năng lực thần thông của Ngài, dù ở trong phòng riêng hay ở chùa xa, hay bất cứ ở đâu cũng không giữ được khỏi sợ. Về sau, khi họ đến gặp Ngài, chính nỗi sợ ấy là đề tài của buổi thuyết giảng. Ngài giải thích rằng mọi sự trên thế gian, kể cả con người, không phải là sản phẩm hoàn hảo. Trước khi sử dụng được phải trải qua nhiều quá trình khác nhau đòi hỏi nỗ lực, sự khéo léo và hiểu biết.

“Bởi vì Sư không hoàn hảo nên cần sự hướng dẫn của một vị thầy và cần phải tu luyện, trau dồi và phát triển. Tại sao Sư sợ bị thầy la rầy và chỉ ra lỗi của mình? Nếu vị thầy không la rầy như vậy thì sao? Chắc chắn Sư sẽ nói rằng vị thầy chẳng khác gì và như vậy không xứng đáng là thầy. Cả hai đều cực đoan. Tất cả đều là tự quy phục đầu hàng cái “tâm-con-khỉ” không ngừng nhảy lên nhảy xuống trên một cành cây mục và cuối cùng té xuống đất vì cành cây gẫy. Sư muốn chọn điều nào, làm con khỉ hay bị thầy mắng vì muốn cho mình phát triển? Lựa chọn là ở Sư.”


^^^


108. Sống như đã chết 


Nhằm khuyến khích chư vị đệ tử nên chuyên cần tinh tấn và không nên sợ chết, đôi khi Ngài Acharn có những thời giảng rất dũng mãnh và sôi nổi. Ngài thuật lại cho nghe làm thế nào với ý chí cương quyết Ngài đã đối phó với cái chết không chút sợ hãi. Ngài nói người mãi lo sợ, không chuyên cần tinh tấn và can đảm đương đầu với cái chết sẽ còn trở lại và chết vô số lần. Người không sợ chết sẽ có thể giảm bớt số lần chết hoặc chấm dứt luôn mọi cái chết, kể cả tái sanh và trở thành. Những người như thế sẽ không còn trở lại cuộc sống phải mang gánh nặng đau khổ như trong hiện tại.

“Tôi đã chứng nghiệm những khổ đau cùng cực vì tinh tấn và cương quyết và đã bất tỉnh ba lần. Nhưng rồi tôi đã vượt qua tất cả để trở thành thầy của quý vị. Quý vị hãy tự hỏi mình đã tinh tấn đến mức độ nào để chấn chỉnh cơn sợ của quý vị? Quý vị đã bất tỉnh lần nào chưa mà sợ cái chết như vậy? Nếu không chết tạm thời, quý vị sẽ khó có thể nhận thức được mức độ huyền diệu của Giáo Pháp. Tôi đã trải qua điều này,” Ngài nói, “dù có ai tin hay không. Nhờ đó mà tôi đã chứng ngộ Giáo Pháp, và làm cho tôi không thể dạy quý vị thỏa thích trong tình trạng ăn no và ngủ kỹ với mục đích để cho ô nhiễm có thể sợ quý vị. Nếu quý vị mãi sống lợi dưỡng, ô nhiễm sẽ chế giễu rằng quý vị không thể làm nên trò trống gì ngoài việc sống cuộc sống người chết.”


^^^


109. Tiếng gầm của sư tử 


Nhiều khi, một thời giảng như thế đôi khi làm cho một vị tỳ khưu đệ tử phản ứng không tốt, thầm than phiền rằng cố gắng như thế là quá đáng đối với vị ấy. “Nếu phải bất tỉnh trước khi đạt được đến Niết Bàn”, một vị tỳ khưu thầm nghĩ, “thì tốt hơn là tôi ở lại đây trong thế gian này, dù phải chịu khổ đau như thế nào. Những người khác cũng chịu đau khổ như vậy. Tại sao tôi lại sợ? Chưa bao giờ nghe có ai bất tỉnh vì đau khổ này cả. Ai muốn đi Niết Bàn thì cứ tự do đi, nhưng tôi thì thích ở lại đây để chia sẻ đau khổ với người khác. Dù sao vẫn tốt hơn là phải ngửi thuốc mê để nhập Niết Bàn!”

Vài giây sau khi ý nghĩ hoang dại của vị tỳ khưu vừa trôi qua thì thời giảng của Ngài Acharn bỗng nhiên thay đổi, cả trong đề tài và giọng nói. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, tiếng nói của Ngài Acharn nổ lên như sấm, đáp lại một cách vô cùng nghiêm khắc như sau:

“Sư nghĩ rằng tôi đang nói dối hay sao? Nếu không tin lời tôi, tại sao lại không bỏ đi? Nếu thấy ở lại đây là vô ích thì ở lại làm gì? Trước tiên là không ai mời Sư tới đây. Sư tự ý đến, như vậy hãy tự ý ra đi. Giáo Pháp của Đức Phật không phải để cho “người trống rỗng” (17) như Sư. Thật đáng hổ thẹn cho một người đang đắp y cà sa mà có ý nghĩ như thế. Người mang y cà sa được người ta ngưỡng nhìn lên như người có niềm tin nơi Giáo Pháp. Giờ đây Sư nói ngược lại với Con Đường Giải Thoát mà Đức Phật đã tuyên ngôn.

“Sư có quyền tự do đi bất cứ đâu để tìm thỏa thích và giải khuây theo ý muốn. Nếu sau này Sư chứng ngộ Giáo Pháp, xin thỉnh Sư trở về đây dạy tôi. Tôi sẽ hết lòng cảm tạ. Những gì tôi dạy sư và mọi người chỉ là sự thật, rằng những ai muốn thoát ra khỏi vòng khổ đau phải không sợ chết. Sư không tin điều ấy và muốn chịu sanh tử trong thế gian đau khổ. Sư tha hồ làm vậy, nhưng tại sao lại đi ngược lại Pháp, vốn là vị thầy thay thế Đức Phật? Sư tự mình làm cho mình trở thành kẻ thù của Giáo Pháp và gây trở ngại cho những ai vẫn còn muốn bước theo dấu chân Đức Phật. Như vậy, ngoài việc tự gây hại cho chính mình, ý nghĩ lầm lạc của Sư còn làm tổn hại Giáo Pháp và nhiều người khác.

“Tôi nghĩ Sư đến đây để phát triển mình và làm vẻ vang Phật Giáo, không hề nghĩ rằng Sư ôm ấp nuôi dưỡng ý tưởng lầm lạc như vậy. Giờ đây mới biết Sư đang tự tiêu diệt mình và tiêu diệt Phật Giáo. Nếu từ nay không cố gắng sửa đổi, Sư sẽ tự chuốc lấy đau khổ cho mình và cho kẻ khác. Chúng ta được biết rằng trước khi Thành Đạo, Đức Phật phải chịu khổ đau cùng cực đến mức phải bất tỉnh ba lần. Sư nghĩ là Đức Phật nói dối sao? Sư là một Phật tử và một vị tỳ khưu dhūtaṅga để làm gì nếu không tin vào Giáo Pháp và Đức Phật, người đã tuyên ngôn Giáo Pháp. Sư quả thật vô dụng, chỉ làm người bằng việc thở! Về mặt tinh thần, Sư đang chịu đau khổ làm người sống như chết, một thây ma có hình tướng con người, mà chỉ vì Sư có suy nghĩ sai lầm.

“Giờ đây Sư hãy thận trọng suy nghĩ và quyết định chọn đường nào lợi ích và an toàn cho chính Sư. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi biết rằng không có đường nào tốt hơn con đường mà tôi đã chọn. Đó cũng là con đường của Đức Phật và chư vị đệ tử A La Hán. Tôi chỉ truyền dạy những gì mà chính tôi đã trực tiếp trải nghiệm.”

Được biết, trên đây là những lời dạy mạnh mẽ nhất và cũng là những lời quở trách nghiêm khắc nhất của Ngài Acharn. Tường thuật trên chỉ là phần cốt yếu của lời dạy này. Các đệ tử của Ngài đều vô cùng kinh sợ, rất sốc vì giọng nói và đề tài của lời mắng. Vị tỳ khưu là nguyên nhân của việc này lại càng sợ hơn tất cả mọi người và sớm nhận ra rằng với địa vị của mình (một tỳ khưu hành hạnh đầu đà) thì suy nghĩ như vậy quả thật đáng ghê sợ. Trong tâm vị tỳ khưu đó không còn chút dấu vết ương ngạnh nào nữa và đến đây giọng nói và lời giảng của Ngài Acharn thay đổi, đầu tiên là dịu dần rồi trở nên an ủi.

Khi thời giảng chấm dứt, hội trường giải tán, mọi người thì thầm với nhau, người này hỏi người kia ai đã làm cho Ngài nổi lên “Tiếng gầm của sư tử” như vậy. Các vị chưa bao giờ nghe giọng nói như vậy trong các thời giảng và quả quyết rằng dù là ai đi nữa thì người đó chắc chắn đã có suy nghĩ sai lầm vô cùng, đối nghịch trầm trọng với Giáo Pháp. Nếu không thì đề tài của bài giảng và giọng nói của Ngài ắt không bỗng nhiên thay đổi bất ngờ như vậy. Như thường lệ, chẳng bao lâu đã tìm được người mắc tội vì người đó sẵn sàng nhận rằng chính mình đã ôm ấp tư tưởng bất thiện như vậy, và bây giờ đã nhận ra điều đó nhờ lời mắng của Ngài Acharn quả xứng đáng với lỗi của mình.

Những vị tỳ khưu dhūtaṅga dưới sự rèn luyện và hướng dẫn của Ngài Acharn luôn luôn sẵn sàng nhận lỗi, có khi coi đó là chuyện buồn cười và cũng có lúc là cơ hội được nghe những bài giảng đạo đức để trau dồi tự kiểm soát.

__________

(17). Đây là dịch từng chữ từ tiếng Pāli, có nghĩa là người si mê hay người bị ô nhiễm hoàn toàn ngự trị và như vậy thì hoàn toàn mù quáng trước sự thật, không thể hiểu sự thật.


^^^


110. Bản chất của tâm phàm tục 


Ngài Acharn biết rất rõ ràng tính chất của tâm phàm tục. Các vị tỳ khưu đệ tử của Ngài đều biết rằng Ngài sẽ dừng ngay những suy nghĩ lầm lạc có hại cho việc phát triển tâm của một người bằng khả năng tha tâm thông của Ngài. Những ý nghĩ khác không quan trọng, Ngài không đề cập đến. Ngài biết rõ rằng không thể kiềm chế được tất cả những suy nghĩ sai lầm trong tâm phàm tục. Đối với tâm chưa phát triển đầy đủ, rất khó có thể kiểm soát hoàn toàn. Dù sao, những ai có thể chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc, cả về tinh thần và vật chất, của Ngài sau một thời gian đều nhận thấy có nhiều tiến bộ trong việc trau dồi tâm và cảm thấy thanh bình, an lạc và tĩnh lặng trong tâm. Niệm và tuệ phát triển làm cho họ “miễn dịch” với mọi hoàn cảnh hay trường hợp họ gặp phải.

Thói quen, dù tốt hay xấu, không tự nhiên phát triển. Chúng phải được lặp đi lặp lại nhiều lần để trở thành bản chất tự nhiên thứ hai. Tật xấu thì khó khắc phục vì đã ăn sâu bám chặt trong tâm, còn tính tốt thì dễ mất. Do vậy, làm cha mẹ nên gieo trồng những đức tính thanh cao tốt đẹp trong tâm trẻ con, trước khi quá trễ. Ví dụ như chọn cho con những người chăm sóc có nhiều tính tốt.


^^^


111. Tâm bất thối chuyển 


Cũng như trong việc huấn luyện quân nhân, người lính phải trải qua nhiều loại luyện tập cho đến khi có đủ khả năng chịu đựng những loại khí giới khác nhau, trong lĩnh vực tâm linh cũng vậy, vị đệ tử được luyện để “miễn dịch” hoàn toàn với mọi ảnh hưởng cám dỗ và nguy hiểm, với tâm quân bình trước mọi hoàn cảnh xáo trộn.

Đối với người phàm tục, trạng thái hoàn toàn thanh bình an lạc, giải thoát hay trạng thái Niết Bàn hình như quá khô khan, buồn tẻ, một nơi ảm đạm và hoang vu. Thông thường người ta nói Niết Bàn như nơi chốn không có thú vui hay những trò giải trí. Thú vui và trò giải trí là những thứ mà đa số mọi người ưa thích, muốn thọ hưởng. Một ít người Phật tử ước nguyện Niết Bàn bởi vì đó là những gì không thể nghĩ bàn, không phải như ý niệm về an lạc, thành quả của giới đức và việc trau dồi phát triển tâm. Vài người cũng hình dung Niết Bàn như một thị trấn trong im lặng hoàn toàn, không có tiếng động của thú vật, của người, của xe cộ,… điều quan trọng hơn cả là không còn hy vọng hay ước muốn gì. Mặc dù việc mô tả Niết Bàn và trạng thái của Niết Bàn là vượt ra ngoài năng lực của ngôn ngữ và suy nghĩ, nhưng cũng có thể chấp nhận rằng người có nguyện vọng thành đạt Niết Bàn phải không còn hy vọng hay ham muốn gì về đời sống vật chất (tài sản, sự nghiệp, danh vọng, quyền thế…). Những người có nguyện vọng như thế mong tìm hạnh phúc bên trong vi tế hơn, có thể thản nhiên trước cảnh xáo trộn của môi trường. Cái đó cao thượng hơn nhiều những loại thích thú từ bên ngoài vốn luôn thay đổi, phù du và nặng nề.

Người có nguyện vọng thành đạt Niết Bàn chấp nhận sự thật, sẵn sàng đối mặt và chấp nhận sự thật, mặc dù nhiều khi sự thật không dễ chịu và làm tổn hại đến ô nhiễm hay tự ngã của mình. Người ấy không để cho những ham muốn sai lầm thống trị mình và quyết tự sửa mình khi bước trên Con Đường dẫn đến thanh bình và hạnh phúc thấy được rõ ràng, mặc dù trạng thái thanh bình và hạnh phúc ấy sẽ không đem lại một số tiền lớn hay giúp ta trở thành triệu phú theo nghĩa của thế gian. Trạng thái thanh bình, hạnh phúc và an toàn không liên quan đến tài sản. Tài sản khổng lồ không đảm bảo hạnh phúc, nhất là khi tài sản ấy được thâu nhập bằng những phương tiện sai lầm. Trái lại, rốt cục đó là những món nợ thay vì là tài sản, tội khổ chứ không phải phước lành. Đó là những gì bậc Thiện trí, nhất là những người luôn có nguyện vọng thành đạt Niết Bàn nhận thức và luôn luôn ghi nhớ nằm lòng.


^^^


112. Thời Pháp tại Chiengmai nhân ngày Phật Đản 


Trong khi lưu ngụ tại Chiengmai, không có nhiều vị tỳ khưu dhūtaṅga tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài vì lúc ấy Ngài ở sâu trong rừng là chính. Tuy nhiên, trong thời gian ấy, Ngài nhận được nhiều bức thư thỉnh mời của Ngài Chao Khun Dhammacetiya, Wat Bodhi Somphorn trong thành phố Udorn Thani. Ngài không trả lời thư cũng không chấp nhận lời mời.

Vào năm Phật lịch 2482 – 2483, tức 1939 – 1941 DL, chính Ngài Chao Khun đích thân vào rừng sâu kính thỉnh. Ngài Acharn thấy vậy trả lời tất cả những bức thư cùng một lúc, nói rằng trước kia mình đã có nhận tất cả những bức thư đó nhưng đó là những bức thư nhỏ nên Ngài không bận tâm trả lời. Giờ đây “bức thư lớn” đến, Ngài sẽ trả lời – nghĩa là đích thân Ngài Chao Khun đã đến nên Ngài sẽ trả lời. Sau khi nói thế, Ngài cười, và Ngài Chao Khun cũng cười rồi mở lời thỉnh Ngài Acharn về thành Udorn Thani. Nhiều năm rồi Ngài chưa trở về nơi ấy, và các đệ tử hết lòng khát khao được nghe lời dạy của Ngài. Ngài Chao Khun nói, nay Ngài đến thay mặt những người đó. Nghe vậy Ngài Acharn nhận lời mời. Các Ngài thống nhất sẽ đi vào đầu Năm năm 2483 PL (1940 DL).

Trước khi Ngài Acharn rời nơi lưu ngụ trong rừng để đi Wat Chedi Luang, Chiengmai, rất đông chư thiên đến thăm và tất cả đều yêu cầu Ngài ở lại, nói rằng trong lúc Ngài ở đây, họ cảm thấy rất thanh bình và hạnh phúc. Họ nói hào quang tâm từ của Ngài ngày đêm bao trùm mọi phía khắp cả cảnh giới của họ. Ngài ra đi, họ không còn được hạnh phúc như vậy và họ sẽ kém thanh bình, an lạc đi và việc quản lý cuộc sống của họ sẽ kém thuận lợi hơn. Ngài nói đã chấp nhận lời mời của người Udorn Thani và phải giữ lời. Rằng giới đức của một vị tỳ khưu là lúc nào cũng phải giữ lời hứa. Nếu không chân thật thì đời sống và pháp hành của vị tỳ khưu trở thành vô giá trị.

Vào tháng năm, Ngài Acharn và các đệ tử cùng rời rừng sâu để du hành về Wat Chedi Luang nơi có nhiều thiện tín đón mừng. Ngài Acharn On, Wat Thipyarath Nimit và một nhóm thiện tín từ Udorn Thani cũng đến Wat Chedi Luang.

Trong một tuần chờ đợi tại thị trấn Chiengmai, các thiện tín ở đó cũng van xin Ngài ở lại đó lâu hơn, nhưng Ngài không thể chấp nhận lời mời cũng như không thể chấp nhận lời thỉnh cầu của chư thiên bởi vì đã có lời hứa với người Udorn Thani. Tuy nhiên, trước khi rời Chiengmai, Ngài Chao Khun Phra Rajkavi và thiện tín ở đó thỉnh Ngài ban cho thời Pháp ngày Lễ Phật đản (Vesākha Puja) để mọi người có thể nhớ Ngài trong một thời gian dài. Người viết lúc bấy giờ cũng may mắn có mặt ở đó và được duyên may lắng nghe thời Pháp kéo dài ba tiếng đồng hồ này. Thời Pháp thật cảm kích, cho đến nay vẫn còn in sâu trong trí nhớ, nhưng ở đây chỉ xin tóm lược.


^^^


113. Sự ra đời của Đức Phật và sự ra đời của những người khác 


“Vesākha là ngày Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Đại Niết Bàn của Đức Phật. Sự ra đời của Đức Phật khác xa với sự ra đời của những người thường ở chỗ là sanh ra rồi, nhưng sau đó Ngài không còn bị vô minh thống trị. Ngài là người nhận ra được bản chất thật sự của thế gian nơi mình sanh ra, sống và viên tịch hoàn toàn. Sở dĩ được vậy là nhờ Nhãn Quan Toàn Tri của Trí Tuệ gọi là Giác Ngộ. Vào lúc hoàn toàn viên tịch, Ngài từ giã cơ thể vật chất đã phục vụ mình như một phương tiện để hành thiện đến tận giây phút cuối cùng. Sự ra đi của Ngài quả thật “Thiện Thệ”, là bậc Tôn Sư của Tam giới. Trước khi rời bỏ cái thân mà không còn bảo trì được nữa, Ngài ban truyền Giáo Pháp làm thầy thay Ngài. Tất cả chúng ta, nhờ thiện nghiệp đã tạo ra trong quá khứ đã được sanh ra làm người, nhưng chớ nên quá tự mãn mà phải bù lại vào kho tàng phước báu vì sự an toàn của chính chúng ta trong tương lai. Không làm vậy là không lo cho tương lai của mình thì bất kỳ hay mọi nghịch cảnh và những ảnh hưởng bất lợi sẽ thuộc về ta dù ta muốn hay không.

“Tất cả những mức độ khổ đau và hạnh phúc, tiến bộ và thụt lùi, đều là sở hữu của người đã tạo nhân. Đây không phải chỉ là những người tạo nhân trong quá khứ và đang phải chịu đau khổ hay vui hưởng quả lành trong hiện tại, mà còn là những người đang tạo nhân trong hiện tại và sẽ gặt quả khổ hay lạc trong tương lai. Những quả ấy không phải là sở hữu riêng của riêng ai mà thuộc về tất cả những ai quan tâm và dám tạo nhân tương xứng cho mình.


^^^


114. Không nên khinh miệt nghiệp của người khác 


“Theo sự hiểu biết như vậy, người Phật tử được dạy không được khinh miệt những ai đang đau khổ khốn cùng vì chịu quả của những nghiệp bất thiện mà họ đã tạo trong quá khứ. Nào ai biết, rất có thể chính ta sẽ phải ở trong hoàn cảnh tương tự, hay còn tệ hơn. Và họ có thể sẽ được như ta ngày nay, hay thậm chí còn ở trong hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Đó là Định Luật của Nghiệp hay của Pháp, ta nên quan sát những hành động thiện và bất thiện của mình và của người khác, và rồi lựa chọn nhân lành và loại bỏ những nhân không mong ước. Từ ngày thọ lễ xuất gia đến nay, ta đã tận dụng từng giây, từng phút để tự quan sát, chọn nghiệp thiện và loại trừ nghiệp bất thiện luôn sanh khởi và hoại diệt trong tâm.

“Các loại nghiệp khác nhau đã được tạo nên do tâm và cũng chính trong tâm quả được tích trữ. Đó là sự thật hiển nhiên không ai có thể hoài nghi. Người không tin vào sự thật của nghiệp sẽ gieo trong tâm mình tình trạng mù quáng và lạc hướng suốt cả cuộc đời. Những người ấy được cha mẹ nuôi dưỡng và chăm sóc đến trưởng thành, nhưng vì được cha mẹ quá nuông chiều, không biết nhờ đâu mình khôn lớn đến tuổi này. Điều mà họ biết là cái thân này mà hiện thời họ gọi là của họ, thích quên ơn mồ hôi nước mắt của cha mẹ đã dày công lao khổ để nuôi nấng và nuôi dưỡng cái thân ấy để họ vui hưởng ngày nay. Cơ thể vật chất cần thức ăn và thức uống để được khỏe mạnh và trưởng thành. Nếu những cố gắng kiên trì và khổ nhọc nhằm cung cấp đầy đủ cho con mà không thể gọi là “nhân của nghiệp” thì có thể gọi là gì? Cái thân, được cung cấp thức ăn và thức uống đầy đủ được khỏe mạnh, bền vững trưởng thành và thuần thục. Nếu không thể gọi là “quả của nghiệp” thì phải gọi là gì?

“Thiện và bất thiện, hạnh phúc và đau khổ, tất cả chúng sanh đều đã trải qua. Nếu đó không phải là nhân và quả của nghiệp thì nó là gì? Thử nghĩ đến những người tự tử và tầm quan trọng của tâm với tư cách là người tạo nghiệp, ta sẽ thấy rõ ràng hơn. Còn gì khác hơn là tâm đã tạo nguyên nhân cho cái chết? Một lần nữa, nếu không chấp nhận đó là nghiệp thì không còn hy vọng gì hiểu biết sự thật này. Nghiệp nằm bên trong chúng ta. Chính ta luôn luôn tạo nghiệp và gặt quả. Sự thật này hiển nhiên và tự nó chứng minh. Nếu nghiệp đi theo người tạo nghiệp như chó đi theo chủ thì ta gọi là “con chó” mới đúng, không gọi là “nghiệp” (18). Nhưng nghiệp (nhân của nghiệp) là hành động thiện hay bất thiện bằng suy nghĩ, lời nói và hành động, và quả của nghiệp tự biểu hiện chúng thành hạnh phúc và đau khổ mà chúng sanh trong tam giới trải nghiệm, dĩ nhiên là kể cả những chúng sanh không thể hiểu sự thật nào khác hơn là làm thế nào nuôi dưỡng cái thân và sống càng lâu càng tốt.”

Vào lúc thời Pháp chấm dứt, Ngài Acharn Chao Khun Rajkavi tỏ lời tán dương, nói rằng thời Pháp rất dài và rất thú vị. Ngài Acharn đáp lời, nói rằng thời Pháp quả thật rất dài bởi vì tuổi Ngài đã cao và có thể Ngài không trở lại Chiengmai được nữa. Những lời ấy quả thật linh nghiệm vì từ đó Ngài không còn trở lại Chiengmai.
__________

(18). Con chó chạy theo chủ mà ở ngoài chủ nó, trong khi quả của nghiệp theo dính liền bên trong tâm và được tích trữ trong tâm. Nói cách khác, con chó và chủ nó là hai vật rời nhau, còn nguyên nhân của nghiệp và quả của nghiệp được tích trữ chung trong tâm và là một: tâm.


^^^


115. Từ Chiengmai đi Bangkok 


Ngài Somdet Phra Mahā Viravong, lúc bấy giờ là Phra Rajkavi và một nhóm rất đông thiện tín và tất nhiên, cả đông đảo chư thiên, tiễn đưa Ngài Acharn ra bến xe lửa đi Bangkok. Ngài Acharn nói rằng lúc ấy có rất đông các vị trời trong không trung, đến từ nhiều hướng đến để tiễn Ngài ra ga. Khi đoàn xe sắp rời khỏi ga, Ngài càng thêm bận, nói chuyện với mọi người ở ga và gửi lời cảm tạ bằng tâm tới chư thiên. Khi tàu rời khỏi ga, Ngài có nhiều thời gian với chư thiên hơn và gửi lời chúc phúc bằng tâm đến họ.

Cũng như chúng sanh trong cảnh người, vài vị trời cầm lòng không đặng, đã phát lộ nỗi buồn của mình bằng lời nói và cử chỉ. Một số khá đông các vị này chịu khổ chạy theo xe lửa đang chạy nhanh một quãng xa cho đến khi Ngài gửi những tư tưởng cảm tạ và hối thúc các vị trở về nhà. Tất cả đều buồn bã quay trở về mà không hy vọng được Ngài trở lại với họ một lần nữa. Có lẽ đây là lần cuối cùng mà các vị trời này gặp Ngài vì Ngài không còn trở lại Chiengmai và không nghe Ngài nhắc đến việc họ đến nghe thuyết Pháp lúc Ngài ở Udorn Thani và Sakol Nakhorn, những thị trấn vùng Tây Bắc.

Tại Bangkok, do lời thỉnh cầu của Phra Mahā Viravong, Ngài lưu ngụ tại Wat Boromnivat. (Lúc ấy không có đường xe lửa đi Đông Bắc nên Ngài phải đi qua Bangkok). Lúc bấy giờ, có rất nhiều người đến thăm viếng Ngài (nghe danh và nghe tiếng Ngài là vị tỳ khưu dhūtaṅga rất thông thạo về pháp hành thiền định và thiền tuệ). Sau đây xin ghi lại vài thắc mắc trong số nhiều câu hỏi được nêu lên.




116. Kiểm soát tâm là cốt lõi của giới đức 


Hỏi: Chúng tôi được biết rằng Ngài chỉ giữ một giới thay vì 227 giới (những giới chính yếu mà mỗi vị tỳ khưu đều phải thọ trì gọi là Pāṭimokkha) như các vị tỳ khưu khác. 

Ngài Acharn: Đúng vậy 

Hỏi: Bạch Ngài, như vậy là sao? 

Ngài Acharn: Chính là tâm. 

Hỏi: Bạch Ngài, như vậy 227 giới thì sao, Ngài không giữ sao? 

Ngài Acharn: Lúc nào tôi cũng kiểm soát tâm để không bao giờ vi phạm giới nào mà Đức Phật ban hành, dù 227 giới hay là bao nhiêu giới nữa. Như vậy, tôi yên lòng rằng không bao giờ vi phạm giới luật do Đức Phật ban hành. Dù có bao gồm 227 giới hay không thì mọi người và mỗi người tự quyết định lấy. Từ ngày thọ lễ xuất gia, tôi không bao giờ dể duôi trong việc kiểm soát tâm, đó là nguồn cội, chính là nơi xuất phát cho tất cả lời nói và việc làm. Hỏi: Bạch Ngài, nhưng tại sao thọ trì giới luật lại có liên quan gì đến tâm? Ngài Acharn: Thế tại sao không? Nếu không thận trọng canh phòng giữ tâm trong sạch thì quả của giới đức sẽ ra sao? Chỉ có xác chết mới không canh phòng tâm, lời nói, việc làm. Nhưng có bao giờ xác chết có giới đức lại không có ý định giữ giới không? Nếu nó muốn hành trì một loại giới luật nào thì phải gọi đó là “giới của xác chết”, loại giới mà không tạo quả thực tế nào. Tôi không phải là một xác chết nên không thể giữ giới của xác chết. Đó là tại sao, trong trường hợp của tôi, giới đức luôn luôn phải liên quan đến tâm, chính tâm tạo nghiệp thiện hay bất thiện. Hỏi: Nhưng theo Kinh Điển, giới đức liên quan đến sự kiểm soát lời nói và việc làm. Như vậy hình như ám chỉ là giới không liên quan gì đến tâm. Ngài Acharn: Theo một nghĩa điều đó có thể là đúng, nhưng trước khi có thể nói hay làm gì, tâm của người đó phải nghĩ đến. Nói cách khác, phải kiểm soát tâm trước rồi mới có kiểm soát lời nói và việc làm. Tâm là nơi xuất phát, là nguồn cội của mọi kiểm soát, dù trong những việc hàng ngày. Thí dụ như muốn chữa trị một chứng bệnh phải tìm nguyên nhân rồi chữa. Nếu giữ giới mà không kiểm soát tâm, kết quả là giới sẽ không hoàn hảo, còn thiếu sót, còn ô nhiễm… tất cả sẽ làm hư hoại giáo lý. Giới đức rời hẳn tâm như vậy không thể đem lại lợi ích nào đến người giữ giới hoặc đến Phật Giáo nói chung. Tuy nhiên, đây không phải là quan kiến của một học giả mà là của một tỳ khưu sống trong rừng và đã học Giáo Pháp từ những gì tìm được ở rừng sâu, dù là lá cây, dòng suối hay ghềnh thác, hang động, hay tiếng kêu của muông thú, của chim luôn nghe và nhìn thấy xung quanh. Ở đây không có nền tảng lý thuyết. Đây là lối giải thích giới đức của một tỳ khưu sống trong rừng. 

Hỏi: Bạch Sư, và như vậy, bản chất của giới đức là gì? Cái gì có thể gọi là giới đức theo đúng ý nghĩa của từ đó? 

Ngài Acharn: Suy nghĩ không được cho phép chạy loạn, có khả năng cân nhắc đúng đắn mặt trái mặt phải của mọi việc có liên quan, thể hiện xuyên qua ba đường (thân, khẩu, ý) mà không tách rời xa lìa việc kiểm soát thích hợp – đó là điều kiện hình thành thói quen của người giữ giới. Tuy nhiên, không thể tách rời những đặc tính của giới ra khỏi người giữ giới, kể cả khỏi những kết quả hỷ lạc của việc giữ giới. Đây không giống như ngôi nhà và người chủ của ngôi nhà, là những thực thể riêng biệt. Người này không thể trộn lẫn với người kia. Nhưng trường hợp của giới không phải vậy. Nếu không, giới hay quả của giới không khác nào những món hàng mua bán và có thể mất hay bị trộm cắp, và như thế có thể mang lại tai họa và nguy hiểm cho người giữ giới. Chính vì những hậu quả của giới đức không thể tách rời lìa khỏi người giữ giới. Vì quả của giới không thể tách rời khỏi người giữ giới nên giới có thể tạo hỷ lạc và an toàn thực sự. Không có sự bám níu nào vào giới như người bám níu tài sản, kể cả khi hấp hối. Trong tình trạng dính mắc như thế, người ấy trở thành hồn ma trên địa cầu, chịu đau khổ vì quả của luyến ái, không tái sanh được vào cảnh giới tốt đẹp hơn mà mình có thể vào nếu không khát khao dính mắc vào tài sản của mình. 




117. Câu hỏi của một vị trưởng lão 


Lần nọ, có một vị Trưởng Lão thỉnh Ngài Acharn, xin có một cuộc đối thoại riêng. 

Ngài Trưởng Lão: Được biết rằng lúc nào Ngài cũng thích sống đơn độc vắng vẻ trong rừng sâu. Vậy khi có những câu hỏi về một điểm hoài nghi nào thì làm sao? Tôi ở Bangkok, nơi đây có đủ kinh điển và những vị học giả để tham vấn, vậy mà lắm khi cũng vào đường cụt. Được biết rằng phần lớn thời gian, Ngài chỉ ở một mình, không kinh sách, không học giả. Như vậy khi có hoài nghi hay chướng ngại thì làm sao? 

Ngài Acharn: Bạch Ngài, ngày và đêm lúc nào còn thức, tôi vẫn nghiên cứu học hỏi và lắng nghe Giáo Pháp. Trong những giờ phút tỉnh thức không bao giờ tôi để tâm rời khỏi Giáo Pháp, do đó mọi hoài nghi đều trở nên tỏ rạng và soi sáng tất cả, hết vấn đề này đến vấn đề khác. Bằng cách ấy, tôi chống lại được ô nhiễm và rồi tiêu trừ chúng. Tất cả những vấn đề, những trở ngại và ô nhiễm, dù đến từ bên ngoài hay bên trong, dù thô hay tế, xa hay gần, lớn hay nhỏ đều phát sanh trong tâm. Cũng chính ở trong tâm, ta phải chinh phục tất cả những điều ấy. Không cần phải tìm đến ai khác để được giúp đỡ khi có những khó khăn ấy phát sanh đến mình. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi không thấy có khí giới nào tốt hơn để chiến đấu chống lại những ô nhiễm hay để giải quyết những vấn đề và điều này hoàn toàn đúng theo lời Phật dạy “attā hi attano natho” - ta là chủ của chính ta, sự thật của giáo huấn này đối với tôi lúc nào cũng sáng tỏ. Chính là Pháp, hay niệm và tuệ được phát triển đầy đủ luôn giải cứu tôi, luôn hoạt động đúng lúc và hiệu quả.” 

Nhiều khi mất nhiều thời gian hơn bình thường để vượt qua vài chướng ngại, nhưng rồi sau cùng những khó khăn ấy không ngăn cản nổi năng lực của niệm và tuệ cần phải được trau dồi đặc biệt cho những tình huống cụ thể. Đó là lý do tại sao lúc nào tôi cũng thích sống vắng vẻ cô đơn trong rừng sâu, nơi mà tôi có thể am hiểu tường tận tất cả những vấn đề qua việc tự cứu giúp mình. Và chẳng may tôi chết, điều ấy không làm cho ai bận lo bởi vì tôi ra đi một mình, không làm phiền ai. Kính xin Ngài tha lỗi vì câu giải đáp thô kệch này. 

Tuy vậy, Ngài Trưởng lão có vẻ rất thích thú chú tâm và cảm kích những lời giải thích của Ngài Acharn, hết lời tán dương và khen Ngài Acharn quả thật là một vị tỳ khưu có tài năng tự lực cánh sinh, đơn độc ẩn dật chốn rừng sâu. Ngài đồng ý với Ngài Acharn rằng Giáo Pháp được ghi chép trong Kinh Điển và Giáo Pháp phát sanh trong tâm ở những tầng rất cách xa nhau. Thậm chí Pháp được ghi chép trong Kinh điển đến nay không hoàn toàn đáng tin cậy như trong những thế kỷ đầu sau khi Đức Phật nhập Đại Niết Bàn. Qua thời gian đã có những sai sót do ô nhiễm của những vị biên soạn. Trong trường hợp như vậy Giáo Pháp trong tâm và Giáo Pháp trong Kinh điển chắc chắn là ở những tầng khác nhau, tạo ra những “hương vị” khác nhau, mặc dù cả hai đều được gọi là Giáo Pháp. Ngài Trưởng Lão: Qua lời giải đáp của Ngài, giờ đây tôi đã nhận ra rằng mình quả thật ngu dốt, nhưng tôi cũng thu được lợi ích từ sự ngu dốt ấy vì nếu tôi không hỏi Ngài câu hỏi ngu si ấy, hiển nhiên là sẽ không được nghe lời giải đáp đầy trí tuệ của Ngài. Hôm nay quả thật tôi đã loại bỏ được sự ngu dốt của mình và nhận lãnh trí tuệ của Ngài. 

Còn một thắc mắc nữa mà tôi muốn hỏi Ngài. Chúng ta đọc Kinh điển thấy rằng các vị đệ tử của Đức Phật có thói quen tìm đến Đức Phật dù từ nơi xa xôi, khi có thắc mắc hoặc khó khăn. Tại sao trong những trường hợp như vậy các vị ấy không tự giúp mình mà phải đi đường xa đến nhờ Đức Phật giúp đỡ? 

Ngài Acharn: Khi có người giúp thì dĩ nhiên người ta thích hướng về người ấy mỗi khi có thể được. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp Đức Phật mà tất cả các vị đệ tử đều biết là có đủ khả năng giúp đỡ trong mọi điều cần thiết. Trong trường hợp của tôi, nếu hôm nay Đức Phật còn tại tiền thì tôi sẽ không ngần ngại đi tìm Ngài thay vì chiến đấu một cách khổ sở mất bao lâu bằng nỗ lực không được chỉ đường của mình. Cách chiến đấu này rất khó và không thuận tiện, nhưng giờ đây không có cách nào khác. Đó là trở ngại khi không có một vị thầy tài giỏi. 

Có nhiều lúc hành giả cảm thấy là mình dò dẫm đường đi trong đêm tối, luôn luôn lãng phí thời gian vì cứ phải thử cách này đến cách khác. Tôi đã thành tựu được như ngày nay là nhờ kiên trì cố gắng và bền dạ nhắm thẳng con đường đi đến mục tiêu, vượt qua hết chướng ngại này đến trở ngại, khó khăn khác. 

Vị Trưởng Lão còn nêu nhiều câu hỏi khác, nhưng tường thuật vắn tắt như trên có thể đủ để người đọc có một vài ý niệm hữu ích về Giáo Pháp thực dụng. 

Trong khi Ngài lưu ngụ tại Bangkok, có nhiều vị thiện tín cung thỉnh về nhà để thọ thực nhưng Ngài không nhận lời, nếu buổi lễ trai tăng ấy gây trở ngại cho thời gian biểu thường ngày của Ngài sau buổi độ ngọ. 

Sau khi rời Bangkok, Ngài du hành sang Nakhorn Raja Sima theo lời cung thỉnh của Phật tử nơi đó. Ngài lưu ngụ tại Wat Salavan, một ngôi chùa rừng, nơi ấy có đông đảo người đến viếng thăm và nêu nhiều câu hỏi. Trong những câu hỏi ấy có một câu cảm kích người viết đến tận ngày nay, mặc dù các chuyện khác thì không còn nhớ gì. Người nêu câu hỏi là một thiện tín vốn thành thật nóng lòng muốn thực hành pháp trau dồi và phát triển tâm, và câu hỏi của ông là muốn tìm hiểu, với mục tiêu kiểm tra xem trí tuệ lừng danh của Ngài Acharn thâm sâu đến đâu. 


^^^

118. Không đói tức vô ngã 


Câu hỏi: Bạch Ngài con xin thỉnh Ngài từ bi cho chúng con được biết vì lý do gì Ngài đến Korat lần này? Có phải chỉ vì lợi ích của người dân nơi đây hay cũng vì Đạo-Quả và Niết Bàn của Ngài nữa? 

Ngài Acharn: Sư không đói cũng không si mê những gì ở bên ngoài gây đau khổ. Người bụng đói lúc nào cũng bồn chồn không yên, chạy tìm cái này ở đây, cái kia chỗ nọ. Trong khi bụng đói anh ta chụp lấy bất kể thứ gì có thể chụp được, chỉ để rồi về sau bị chính món đấy tiêu thụ mình. Sư không tìm gì hết vì bên trong Sư đã có đầy đủ thì tìm nữa làm gì? Tất cả những gì khác chỉ là cái bóng, không bản chất. Chụp lấy bóng có ích lợi gì đâu? Tất cả bốn Chân lý thâm diệu (Tứ diệu đế) đều nằm tron vẹn bên trong tâm và cả bốn đều đã được giác ngộ. Không còn si mê thì chạy theo những gì khác để làm gì? 

Ngày nào còn hơi thở trong thân và có người có thể giúp thì còn phục vụ cho họ. Rất khó tìm ra một cái tâm là pháp - khó hơn là tìm trân châu ngọc báu. Một cái tâm như thế còn quý báu hơn kho tàng trị giá hàng triệu bạc, cái tâm là pháp có thể cung cấp cho người khác tình trạng thanh bình và hạnh phúc quý giá hơn nhiều bất kỳ kho báu nào dù lớn đến đâu. Ví dụ về những cái tâm như vậy có thể thấy ở Đức Phật và của chư vị Thánh đệ tử của Ngài. Những người như vậy đáng giá hơn mọi kho báu vì các Ngài coi giá trị của những việc thiện của mình cao hơn nhiều bất kỳ số tiền nào. Các Ngài thích sống nghèo khổ để giúp cho người khác được an vui hạnh phúc. Người si trái lại, luôn lấy tiền làm tín ngưỡng, không nghĩ đến gì khác mà chỉ nghĩ đến cách để kiếm tiền. Họ không dừng lại ở bất cứ điều gì, và cúi mình trước bất kỳ cái gì. Họ phủi sạch, dẹp qua một bên tất cả những khái niệm về vô đạo đức, nghĩ rằng điều ấy vô hại cứ việc làm. Đó là sự khác biệt giữa người tốt và người xấu, giữa Giáo Pháp và tiền bạc. Bậc trí tuệ hiểu những khác biệt ấy, có thể chọn con đường chân chánh trước khi quá trễ, chỉ còn nước ăn năn hối tiếc. 

Cũng nên ghi nhận rằng các khác biệt nói trên không những thuộc về tính chất mà cả về kết quả. Không thể chối cãi và cũng không thể kháng cự được chúng. Chúng thuộc về người đã chọn chúng cho phù hợp với mình. Như vậy, đó là nhân dẫn đến sự khác biệt giữa các chúng sanh như được thấy ngày nay, liên quan đến cảnh giới, hình dáng, khuynh hướng và hạnh phúc mà mỗi cá nhân trải nghiệm. Đó là định luật của thiên nhiên, không thể tránh né hay khinh thường, không phải như những luật do con người tạo ra. 

Câu hỏi: Một lần nữa, con xin Ngài tha lỗi, cho phép con nêu câu hỏi này, con nghe nhiều về danh tiếng bay xa và lan rộng của Ngài. Chư vị tỳ khưu cũng như hàng cư sỹ, tất cả mọi người đều xác nhận rằng Ngài không phải là một vị Sư bình thường. Câu giải đáp của Ngài cho thấy sự đói và si mê của con. Con đã quan tâm đến pháp hành của Phật Giáo được một thời gian và đã thọ hưởng quả an lạc. Quả thật một phước lành cho con là đã có duyên may được gặp bậc thánh thiện như Ngài. Lời giải thích của Ngài đã thuyết phục con nhiều hơn con có thể mong đợi. Không còn chút hoài nghi nào về Giáo Pháp. Giờ đây con biết rằng trong Giáo Pháp, tiến nhanh hay chậm, xa hay gần, tất cả đều tùy thuộc nơi con. 

Ngài Acharn: Lời giải đáp của Sư cùng một bản chất như câu hỏi của con. Sư không đói và không si mê, như vậy thì còn tìm cái gì nữa? Trước kia Sư có đói và có si mê khi chuyên cần, đơn độc thực hành trong cảnh hoang vu của rừng sâu. Chỉ sau khi hội đủ khả năng đứng vững trên hai chân mới bắt đầu có tiếng đồn. Trong lúc chiến đấu, nhiều lần Sư đã bất tỉnh và đối đầu với cái chết. Chỉ rao truyền tiếng đồn phỏng có lợi ích gì bây giờ? Bên trong mỗi người đều có sẵn một kho tàng, nhưng ta phải kề vai đẩy mạnh cho bánh xe lăn tới, phải tận lực để khám phá kho tàng ấy. Phải đào sâu, cuốc bẫm để sử dụng nó ngay bây giờ! Đến lúc lâm chung hay sau khi chết phụ thuộc vào một vị tỳ khưu hay nghi thức cúng tế nào cũng vô ích. Theo một thành ngữ của người Thái đó là “gãi nơi không ngứa.” Để Sư nhắc nhở, cái phải làm là phải “gãi nơi thực sự ngứa.” Nghĩa là cần phải tận lực cố gắng buông bỏ những gì thuộc về thế gian mà không bao giờ là của con. Vì si mê ta cố gắng chụp lấy những gì thuộc về thế gian để làm của riêng, quên rằng kho tàng thực sự quý báu nhất nằm bên trong chính ta. Những của cải ấy tự nó là trung lập, không thuộc về một ai. Nó có thể mang lợi ích đến cho người làm chủ hoặc có thể tạo phiền não và cũng có thể nổi lửa thiêu đốt. Tất cả đều tùy thuộc thái độ trong tâm của người chủ: trí tuệ hay dính mắc. 

Hãy nghĩ đến những vị đã thành tựu trạng thái chấm dứt đau khổ và trở thành nơi nương tựa của chúng ta. Con có nghĩ rằng các Ngài không bao giờ có những tài sản mà các Ngài thực sự quý trọng, thực sự luyến ái? Con có nghĩ rằng chỉ có mình con ngày nay là giàu có và thọ hưởng nhiều sở hữu quý báu? Vậy tại sao con luyến ái và bám níu vào chúng một cách mù quáng? Hiện nay không có nơi để chôn cất hoặc hỏa táng các xác chết hay sao? Nếu vẫn còn chỗ, tại sao con quá tin tưởng nơi đời sống và tại sao con quá đắm đuối trong lạc thú và những cuộc giải trí vui chơi, và đồng thời từ chối không thấy, không nghe và quan tâm lưu ý đến sự thật? 

Nếu con người chỉ có những suy nghĩ như vậy thì có gì khác loài thú, ngoại trừ khi bị dồn vào đường cùng thì con người ở trong tình trạng khổ sở hơn loài thú nhiều gấp bội? Cách duy nhất để đương đầu với khuynh hướng đó là phải chuẩn bị đầy đủ khi ta còn ở trong vị thế có thể làm được. 

Sư phải xin lỗi vì nói hơi thô, nhưng nếu lời dạy thúc giục con người nên làm điều thiện và tránh xa điều ác mà được xem là kém tế nhị thì có nghĩa là Giáo Pháp hay sự thật không còn được chấp nhận nữa và thế gian đã gần đến ngày tận diệt. Còn hy vọng gì nữa cho thế giới mà cho phép tự do làm điều ác đưa đến hậu quả đau khổ và không thể chấp nhận sự thật, xem đó là cái gì quá thô? 

Người viết cố gắng tường thuật một cách sát nhất có thể lời giải đáp trên đây của Ngài Acharn nhằm giữ nguyên hương vị đặc biệt trong lối trả lời của Ngài. 

Còn nhiều câu hỏi khác liên quan đến Giáo Pháp được nêu lên khi Ngài đi bất cứ đâu nhưng quá nhiều để người viết có thể nhớ và ghi lại. 


^^^

119. Tại Udorn Thani 


Ngài Acharn rời Nakhorn Rāja Simā tiếp tục lên đường đi Udorn Thani. Khi đến thị trấn Khon Kean có một số đông người đến nhà ga để đón mừng và cung thỉnh Ngài ở nán lại ít lâu. Ngài nói Ngài không làm thế được vì thành phố này không chính thức nằm trong thời biểu của cuộc hành trình. 

Khi đến Udorn Thani, trước tiên Ngài lưu ngụ tại Wat Bodhi Somphorn với Ngài Chao Khun Dhammacedi. Nơi đây có một số đông người từ các châu quận khác nhau của tỉnh Udorn và từ các thị trấn Nong Khai và Sakhol Nakhorn đến đảnh lễ đón mừng. 

Từ Wat Bodhi Somphorn Ngài đi Wat Nonenivet và an cư kiết hạ tại đây. Nơi đây Ngài Chao Khun Dhammacedi đều đặn hướng dẫn những nhóm thiện tín gồm nhân viên chính phủ, thương gia và dân thường đến viếng thăm Ngài Acharn trong những ngày Wan Phra (rằm, mồng tám, hai mươi bốn và ba mươi) để nghe lời dạy của Ngài. Người Udorn Thani rất mang ơn Ngài Chao Khun đã có công khó nhọc đi Chiengmai, rất xa Udorn Thani (vào thời đó chưa có đường nối liền hai nước hay hai vùng của đất nước. Từ vùng Tây Bắc phải xuống Bangkok về phía Nam rồi đi trở lên Chiengmai về hướng Bắc), rồi từ Chiengmai đi xa, sâu vào rừng để thỉnh Ngài Acharn về đây cho họ. Ngài Chao Khun lúc nào cũng hết lòng quan tâm đến pháp hành của Phật giáo và không thấy mệt khi đàm luận giáo lý, đặc biệt là thảo uận về phương diện thực hành. Ngài vô cùng cảm kích với những lời dạy của Ngài Acharn và tận tình đáp ứng mọi nhu cầu trong lúc Ngài Acharn lưu ngụ tại Udorn Thani, không bao giờ quên hỏi thăm về sức khỏe và nhu cầu của Ngài Acharn nhân danh những người khác. Ngài luôn luôn khuyến khích các thiện tín đến học hỏi với Ngài Acharn. Nếu họ không dám đi một mình thì Ngài sẵn sàng dẫn họ đến và trực tiếp giới thiệu họ với Ngài Acharn. 

Sau mùa kiết hạ, Ngài Acharn muốn đi ở một nơi hoang vu thanh vắng ngoài thị trấn. Làng Nong Nam Khem, khoảng mười hai cây số cách thành phố là nơi mà Ngài lưu ngụ một thời gian dài. Đây là một khu rừng yên tĩnh với cây cối xanh tươi khá thích hợp với Ngài. 

Trong lúc nhập hạ tại Udorn Thani Ngài đóng góp lớn lao vào công trình nâng cao tinh thần cho cả chư vị tỳ khưu, sāmaṇera và thiện tín cả ở thị trấn Udorn Thani và các vùng phụ cận. Thường xuyên có đoàn tỳ khưu và thiện tín đến nghe thuyết giảng và tạo phước nhờ vào Ngài. Phần lớn là những vị đã là đệ tử của Ngài trước khi đi Chiengmai. Nay nghe tin Ngài trở về, tất cả đều lấy làm hoan hỷ đến đảnh lễ và nghe giảng Pháp. Lúc bấy giờ Ngài khoảng bẩy mươi tuổi và vẫn còn hoạt động nhiều. Thật ra Ngài có thói quen năng động, không thích ngồi yên một chỗ lâu. Ngài thích đi thênh thang bất định một mình, sống cuộc sống đơn độc trong rừng hoang. 


^^^

120. Tình yêu trong những kiếp quá khứ 


Cũng như ở những nơi khác, nhiều người nêu với Ngài những thắc mắc tương tự nhau. Trong số ấy có hai câu hỏi quan trọng. Câu hỏi thứ nhất liên quan đến bẩm tính và những khuynh hướng có sẵn trong tâm của một người, Ngài Acharn giải thích rằng đó là những quyết tâm trước đây giờ làm nguyên nhân gốc rễ tạo ra những kết quả nhìn thấy được. Câu hỏi thứ nhì được đề cập đến cái thường được gọi là tiếng sét ái tình vì đã là vợ chồng trong một hay nhiều kiếp trước. 

Câu hỏi: Bạch Ngài làm thế nào có thể biết được rằng tình yêu giữa người đàn ông với người đàn bà bắt nguồn từ tiền kiếp hay họ mới gặp nhau lần đầu tiên trong kiếp hiện tại? 

Ngài Acharn: Đối với người thường không có cách gì phân biệt. Phần lớn họ chỉ thương nhau một cách mù quáng (tức là vì tình cảm), như người bụng đói bỏ vào miệng tất cả những gì họ có được, không cần biết đó là cái gì, hương vị ra sao và giá trị dinh dưỡng của nó thế nào. Mục đích của người ấy chỉ làm dịu cơn đói. Tình yêu sét đánh ở con người cũng vậy. 

Trong phần lớn các trường hợp rất khó chờ đến khi tình yêu đó đến. Nhiều ô nhiễm trong vấn đề này, tức lòng tham dục, không có khả năng kiên nhẫn và lựa chọn. Nó chụp lấy ngay lần gặp mặt lần đầu tiên cái gì cảm thấy là đủ hấp dẫn, không biết “thiên vị” và không chấp nhận giới hạn hay khoảng cách. Chính lòng tham dục ấy làm cho con người liều lĩnh và trở thành nạn nhân của nó, không còn biết gì đến phong tục, lễ nghi, đạo đức, văn hóa hay tiết độ. Đó là năng lực của dục vọng chế ngự tâm mọi người. Những ai không muốn đặt mình dưới ách của nó vô điều kiện, phải đối đầu với năng lực hùng mạnh của nó bằng cách khép mình theo tiến trình tự kiềm chế và vô hiệu hóa nó, nếu chưa tiêu diệt được năng lực của nó. Nếu không có trau dồi và phát triển năng lực tâm linh (thần thông) đặc biệt thì không có cách gì hiểu biết rằng một tình yêu (hay thực ra là dục vọng) bắt nguồn từ kiếp sống này hay nhiều kiếp quá khứ. Như vậy, chỉ bằng cách tự kiềm chế và tiết độ thì con người mới có khả năng kiềm chế cơn tham dục đang tràn ngập và tự bảo vệ mình khỏi chìm đắm trong đại dương mênh mông gọi là tình yêu. 

Câu hỏi: Một người chồng hay một người vợ phải làm thế nào nếu họ muốn còn gặp nhau trở lại trong tương lai để không bị xa lìa? 

Ngài Acharn: Ý muốn chỉ có thể là một chỉ dẫn hay một lối đi. Nó phải được hành động trợ giúp hay có nhân để thực hiện ý muốn. Thí dụ như mỗi người đều muốn trở thành triệu phú nhưng bao nhiêu người có thể thực hiện được mục tiêu đó? Phần lớn ai cũng muốn như vậy nhưng không đủ năng lực để tạo nguyên nhân. Họ vẫn nghèo như trước. Đối với tình yêu của hai vợ chồng cũng vậy. Nếu họ muốn gặp lại nhau trong những kiếp tương lai và cùng ở với nhau mãi mãi hạnh phúc, không bao giờ xa nhau thì họ phải cùng có chung một quan niệm và cách sống và bằng lòng với nhau, không ngoại tình, làm phương hại đến thanh bình của người vợ hay chồng mình và do đó mất tin tưởng lẫn nhau. Nếu cả vợ lẫn chồng cùng mong muốn như nhau và có thể tạo những nhân kể trên, lúc nào cũng chung thủy, tin tưởng lẫn nhau, thì ước muốn của họ sẽ thành hiện thực vì có nhân và quả của nhân đó. Nếu họ chỉ ôm ấp ý muốn sống chung với nhau mà hành động khác nhau thì ý muốn dù có nhiệt thành như thế nào cũng không thành tựu. Con chỉ muốn được đoàn tụ và không gì khác nữa à? 

Người cư sỹ trả lời: Theo con có thể hồi nhớ thì con không biết tới ước vọng nào khác mà quan trọng hơn thế. Có thể con muốn giàu sang, danh vọng, muốn sanh về cõi trời hay cõi Niết bàn, nhưng không thể sống mà không có vợ của con. Tất cả những ước muốn khác đều chỉ là thứ yếu so với vợ của con. Con sẽ lấy làm hài lòng có được những cái khác như là phần thưởng, nếu có thể. Con cảm thấy rất hổ thẹn khi nói như vậy trước mặt Ngài Acharn và cũng sợ Ngài quở trách, nhưng thiết nghĩ rằng những người khác cũng ít nhiều ở trong tình trạng như thế, chỉ là dám nói ra hay không. 

Ngài Acharn (cười): Rồi bây giờ khi đi bất cứ đâu con cũng mang bà ấy theo phải không? 

Vị cư sỹ: Con lấy làm hổ thẹn công nhận đó là sự thật. Cũng vì vậy mà hiện giờ con không thể xuất gia. Vợ con sẽ trở thành đơn độc, không ai giúp đỡ cho bà ấy được ấm áp và thoải mái, không ai giúp tài chính và những nhu cầu khác. Theo kinh điển con được biết rằng có những cảnh trời trong đó chư thiên, nam và nữ, tất cả đều thọ hưởng những lạc thú khác nhau. Chắc chắn đó là nơi sanh sống có nhiều hạnh phúc. Nhưng cảnh Phạm thiên (Brahma) hình như không có những thú vui như vậy. Quả thật cô đơn. Trong những lúc lo âu và buồn khổ thì hướng về đâu để được tâm sự? Niết bàn hình như còn tệ hại hơn nữa vì không liên lạc với ai ở môi trường bên ngoài cả. Hoàn toàn tự một mình, không tùy thuộc nơi ai hay cái gì. Có hãnh diện gì và danh dự nào đối với những người đã nhập Niết bàn như vậy? Trong cảnh người, người giàu sang và chức sắc cao được những người xung quanh tôn kính. Nhưng người đắc Niết bàn có được người khác kính nể như vậy không? Đối với con, hầu như tất cả đều ra đi, mất luôn mãi mãi. Điều này làm con nghi ngờ, không biết những vị đã nhập Niết bàn có thật sự hạnh phúc không? Cúi xin Ngài Acharn vui lòng tha thứ những lời điên cuồng nhảm nhí của con, nhưng đó là những điều mà con thắc mắc từ lâu. Hôm nay rất may mắn con có duyên lành được gặp bậc trí tuệ như Ngài để thổ lộ tâm tình, nói lên những hoài nghi ấy. 

Ngài Acharn: Những cảnh giới chư thiên, chư Phạm Thiên và Niết Bàn không phải để cho những người đầy hoài nghi như con, mà để cho những ai đã chứng ngộ giá trị quý báu của những cảnh giới ấy thấy được ở mỗi cảnh giới hơn cảnh giới dưới đó thế nào. Đó là cảnh giới của những vị xứng đáng sống ở đó, không phải để cho những người như con, thậm chí không mơ tới được. Con không thể đến đó nếu vợ con còn sống. Dù cho vợ con đã qua đời, con không thể không nghĩ đến bà ấy và không thể tạo những nghiệp đưa đến cảnh giới ấy, những cảnh không tốt bằng vợ con. Trong tất cả những cảnh giới ấy, vợ con không có ở đó, và như vậy, trong những cảnh giới ấy không ai có thể làm cho con “thích thú” mà chỉ vợ con có thể. Đó là nguyên nhân của sự hoài nghi của con, lo sợ sẽ mất đi cái “thích thú” ấy, phải vậy không? (Cả người nêu câu hỏi và Ngài Acharn đều cười). 

Nhưng con cũng phải biết rằng ngay trên thế gian này cũng có nhiều loại thích thú, tùy theo nó đến với mình qua đường nào. Như những hình ảnh thích thú, đến với ta qua mắt; âm thanh thích thú đến với ta qua tai; mùi thích thú đến với ta qua mũi; vị thích thú đến với ta thông qua lưỡi; sự động chạm ấm áp hay thích thú đến với ta qua thân; và suy nghĩ thích thú đến với ta qua tâm. Con biết ăn là một loại thích thú hay hạnh phúc như thế nào, cũng như ngủ hay như sự chung chạ giữa vợ và chồng. Thích thú qua những đường khác nhau ấy là nguyên động lực đưa đến tất cả những hoạt động của con người. Nhưng một lần nữa, thích thú hay hạnh phúc có thể được phân định theo nhiều loại, nhiều cấp bậc, từ hạnh phúc của loài người trên thế giới đến hạnh phúc của chư thiên trên cảnh trời, hay những vị ở cõi Phạm Thiên, và những vị đã thành tựu Niết Bàn, Niết Bàn quả thật hoàn toàn khác biệt với tất cả các cảnh giới kia. Như vậy trong trường hợp của con, không thể không tìm được thích thú ở một vật hay một người nào. Nếu không thì lúc nào con cũng bị trói chặt thật sự với bà vợ đáng yêu mà không ăn, không ngủ, không làm các công việc khác và tạo phước bằng nhiều cách khác nhau. Con có nghĩ rằng hạnh phúc đến từ vợ con có thể thay thế tất cả các chức năng của thân và làm việc bảo trì đời sống chăng? 

Vị cư sỹ: Ô hô! Bạch Ngài Acharn như vậy làm sao được! Có những lúc chúng con cũng cãi nhau. Không thể trông đợi nơi bà ấy tất cả mọi việc. 

Vị cư sỹ ấy chân thật và ngay thẳng trong lối nói chuyện. Ông cũng có tư cách đúng đắn, phẩm hạnh trang nghiêm nhiệt thành và tìm hiểu Giáo Pháp. Ông tôn kính đảnh lễ Ngài Acharn. Vì vậy Ngài Acharn khi không bận khách khứa thường tiếp chuyện ông một cách tự nhiên, không khách sáo. Thật ra có rất ít người có thể nói chuyện với Ngài Acharn một cách thật thà và không sợ sệt. 

Vị cư sỹ ấy rất yêu bà vợ và các con và cùng lúc rất cảm phục và kính trọng Ngài Acharn. Khi Ngài bận tiếp khách hoặc làm việc gì khác thì ông không quấy rầy với những câu hỏi, chỉ tôn kính đảnh lễ (cho biết rằng ông có đến) rồi đi giúp các tỳ khưu hay sāmaṇera khác làm việc chân tay, vì ông đặc biệt thân mật với các vị. Ngài Acharn cũng thích nói chuyện không chính thức với ông khi có dịp.



From Cư Sĩ

LET IT BE !
«
Next
Bài đăng Mới hơn
»
Previous
Bài đăng Cũ hơn

Không có nhận xét nào

Leave a Reply